Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

Sự sòng phẳng với lịch sử


"Trả lại tên cho anh"
Ngày kỷ niệm thương binh liệt sĩ (27.7) năm nay, có hai sự kiện đặc biệt, nhưng vô tình có liên quan đến nhau.
Thứ nhất, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị các Tư lệnh Hải quân ASEAN lần thứ 5, trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền biển đảo ở Biển Đông có những dấu hiệu leo thang, chủ yếu xuất phát từ quốc gia có liên quan đến Biển Đông bên ngoài ASEAN.
Nhiều ý tưởng, sáng kiến đã được đưa ra, để thúc đẩy hợp tác thực chất giữa hải quân ASEAN, như mở rộng hợp tác với các nước ngoài khu vực, phối hợp triển khai chung, tuần tra chung, chia sẻ thông tin, kể cả thông tin tình báo, thiết lập đường dây nóng...
Thứ hai, sau 23 năm, kể  từ trận hải chiến đẫm máu giữa hải quân Việt Nam và Trung Quốc, khi hải quân Trung Quốc đánh chiếm một số đảo quần đảo Trường Sa của Việt Nam, những chiến sĩ tham gia, đặc biệt là các liệt sĩ và thương binh, đã chính thức được vinh danh trên truyền thông đại chúng của Việt Nam
Các bài báo, hay loạt bài báo, đã kể lại những câu chuyện cụ thể về việc họ đã chiến đấu kiên cường, đã anh dũng ngã xuống như thế nào, hay gan dạ chịu đựng cảnh tù đày thế nào. Người viết thiết nghĩ không cần phải nhắc lại.
9 chiến sĩ khi được Trung Quốc trao trả hàng trên: Lê Văn Đông, Nguyễn Văn Thống, Trần Thiện Phụng, Phạm Văn Nhân, Nguyễn Tiến Hùng; hàng dưới: Trương Văn Hiền, Lê Minh Thoa, Mai Văn Hải, Dương Văn Dũng cùng vợ anh Trần Thiện Phụng và cán bộ dân phòng.
Điều người viết muốn nhấn mạnh ở đây là sự xuất hiện đúng lúc của những bài báo này. Không chỉ thuần tuý là sự vinh danh cần thiết, tuy khá muộn màng, cho những người con đã không tiếc sinh mạng mình, quyết bảo vệ chủ quyền Tổ Quốc. Tấm gương của họ, hơn nữa, đã gợi lại truyền thống anh dũng của những người Việt Nam vốn yêu chuộng hoà bình, nhưng dứt khoát không chịu khuất phục những kẻ có dã tâm cướp đất, cướp nước của họ.
Tuy nhiên, bên trong sự vinh danh khá ồn ã này, cũng như những hành động đền ơn đáp nghĩa được ca ngợi trên truyền hình, đâu đó dường như vẫn có những tiếng thở dài xen lẫn vào.
Đó là câu hỏi của một người lính hải quân tên Hải ở Quảng Bình, người đã bị thương ở Trường Sa năm 1988, bị bắt và chỉ được trao trả sau khi Trung Quốc và Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ, rằng liệu anh và các đồng đội bị thương có được hưởng các chính sách với thương binh, như nhà nước qui định hay không. Việc họ chỉ nhờ phóng viên hỏi hộ, sau hai thập kỷ im lặng, cũng đồng nghĩa với việc cuộc sống của những con người giàu lòng yêu nước và lòng tự trọng này khốn khó đến mức nào.
Đó là câu hỏi của anh hùng chống Mỹ và Khmer Đỏ Phan Văn Xệ, người mà trên cơ thể không có chỗ nào không bị thương, rằng liệu từ giờ đến khi chết mảnh đất mà anh được quân đội cấp có được chính quyền cấp sổ đỏ hay không. Điều đáng buồn hơn là câu hỏi này lại được đặt ra với một đoàn làm phim của Nhật Bản, chứ không phải phóng viên Việt Nam như trường hợp đầu tiên.
Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ và tập thể tàu HQ-505
"Bản công hàm năm 1958" và sự sòng phẳng với lịch sử
Trong mục "Phát ngôn & Hành động" tuần trước, đồng nghiệp Kỳ Duyên  đã bình luận về bài viết "Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam", do nhóm đồng nghiệp từ báo Đai Đoàn Kết thực hiện.
Chắc hẳn không phải là người theo dõi kỹ câu chuyện Biển Đông, nhưng, rõ  ràng, đồng nghiệp Kỳ Duyên đã khá tinh khi phát hiện rằng, khi nào Trung Quốc to mồm nhất, thì  đó là chỗ họ đuối lý nhất. Nói theo kiểu nhà văn Nguyễn Quang Lập, một người cũng ái mộ nữ ký giả Kỳ Duyên, là "chuẩn không cần chỉnh".
Nhưng đọc đi đọc lại bài viết này, người viết vẫn thấy có hai điểm cần bàn thêm.
Thứ nhất, đọc kỹ những cơ sở lập luận, cả về khía cạnh lịch sử, pháp lý lẫn lý luận, thì dường như có sự đóng góp khá quan trọng về tư liệu từ "kho lưu trữ" của Bộ Ngoại giao, thông qua các nhà nghiên cứu thuộc biên chế bộ này.
Thứ hai, cũng với suy luận  đó, tại sao cho đến thời điểm 20.7.2011, bài báo mới xuất hiện, thay vì sau khi báo chí Trung Quốc đưa tin về việc Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn hội đàm tháng trước với người đồng cấp phía Trung Quốc,,?
Những người theo dõi kỹ  câu chuyện hội nghị ngoại trưởng ASEAN, và các sự kiện đi cùng như hội nghị với các  đối tác và diễn đàn an ninh khu vực, có thể lý giải rằng phía Việt Nam đã có sự lo ngại rằng nếu không im lặng, biết đâu Trung Quốc lại không ký vào văn bản hướng dẫn việc triển khai DOC, sau 9 năm trì trệ?
Sự thận trọng có lẽ  không thừa. Bởi anh hàng xóm xấu chơi có thể lấy cớ nọ, cớ kia để "thoái thác trách nhiệm".
Tuy nhiên, những người khác có  thể đặt vấn đề: Nếu cứ ngại mãi như  thế, họ sẽ tiếp tục "bắp thóp"  mà ép điều nọ điều kia. Để rồi đến lúc những người ủng hộ lý lẽ của mình cũng đâm ra bán tín bán nghi về "lập trường" và "cơ sở pháp lý" của mình. Trong cuộc chiến thông tin để họ "thả gà" ra rồi mình "bắt lại" mệt lắm.
Mà Trung Quốc thì thạo cái nghề này lắm. Câu chuyện "Tăng Sâm giết người" trong Cổ học Tinh hoa là một ví  dụ tiêu biểu. Đến Gơ Ben cũng phải gọi bằng "cụ tổ".
Còn nhớ, trong hội nghị tuyên truyền về biển bảo đầu năm 2009, tại Đồ Sơn, nhà báo lão thành Phạm Khắc Lãm đã kể  rằng hồi ông còn là sinh viên học ở  Trung Quốc vào cuối những năm '50, một người bạn Trung Quốc đã nói với ông: "ĐIện Biên Phủ là chiến thắng của cố vấn Trung Quốc."
Khi ông Lãm hỏi tại sao lại nói vậy, người bạn này giải thích rằng anh ta được học như vậy ở phổ thông. Lý Thông đến thế là cùng!
Nhà ngoại giao kỳ cựu Dương Danh Dy thì cho biết rằng báo chí Trung Quốc, nhất là các mạng, thường tuyên truyền rằng người Việt Nam "ăn cháo đá bát", "Trung Quốc giúp đỡ như vậy trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ mà vô ơn", thậm chí còn "xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải của Trung Quốc nữa".
Đúng như đồng nghiệp Kỳ Duyên nhận định tuần trước, đã đến lúc phải nhanh chóng minh bạch lịch sử.
Nhà sử học kiêm  đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc cách đây 8 năm  đã từng nói với một ký giả Nhật Bản: "Lịch sử phải sòng phẳng. Đúng là Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều, từ vũ khí đến nhu yếu phẩm. Thế nhưng, cũng nhờ có Việt Nam đánh Mỹ mà Mao Trạch Đông bắt tay được với Nixon, từ đó phá được thế bao vây cấm vận, và nhờ đó Trung Quốc mới hùng mạnh như ngày nay."
Hơn nữa, xét cho cùng, DOC cũng chỉ là những nguyên tắc xây dựng lòng tin trong ứng xử của các bên trên Biển Đông thôi, và văn bản hướng dẫn vẫn còn mập mờ lắm. Liệu có nên quá thận trọng mà đánh đổi một lòng tin "trên trời" với một anh hàng xóm "khả nghi" với lòng tin với nhau giữa các thành viên trong gia đình, tức là dân tộc này?
Hoàn toàn không nên, theo thiển nghĩ người viết. Thiếu gì cách "vẹn cả  đôi đường".
Thế mới là "quán triệt  đường lối ngoại giao Hồ Chí Minh" !

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét