Thứ Ba, 20 tháng 11, 2012

Lòng nhân ái bị "chìm" trong bộ máy quản lý?

Mình cũng thỉnh thoảng gửi chút tiền ủng hộ "Cơm có thịt" của bác Tuấn và cũng hoan nghênh bác làm thủ tục thành lập quỹ cho có pháp nhân để hoạt động theo đúng pháp luật và có điều kiện để phát triển, không ngờ việc xin phép lại gặp khó khăn thế. Mình có linh cảm các "bác" ở Bộ Nội vụ không có thiện cảm với các quỹ xã hội từ thiện "ngoài quốc doanh" lắm, hay họ sợ các quỹ này dễ bị "các thế lực thù địch" lợi dụng?

(Dân trí) - Quỹ “Cơm có thịt” nghe thật gần gũi và chân thành. Những người sáng lập đã đặt mục đích rất rõ ràng, cụ thể, đó là hỗ trợ các học sinh một số địa phương miền núi phía Bắc có thêm chút thịt trong bữa cơm. Giản dị thế thôi nhưng lại khó vô cùng.
  
(Minh họa: Vũ Toản)
(Minh họa: Vũ Toản)

Câu chuyện bắt đầu từ một lần Nhà báo Trần Đăng Tuấn (nguyên là Phó Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam) chứng kiến học sinh trong khu nội trú dân nuôi tại một trường ở xã vùng cao Suối Giàng, Văn Chấn, Yên Bái ăn cơm chỉ toàn canh loãng. Thương các cháu quá, ông Tuấn cùng bạn bè góp tiền, hằng tháng gửi lên cho các em, mong sao mỗi bữa ăn các cháu có thêm một, hai lát thịt.

Việc làm của ông Tuấn và bạn bè đã động lòng trắc ẩn, nhiều cá nhân, tổ chức có lòng hảo tâm đã nhiệt tình tham gia. Để cho bữa cơm của các cháu có thịt ăn dài hơi hơn, đồng thời chấp hành quy định của Nhà nước, nên ông Tuấn đã xin thành lập Quỹ “Cơm có thịt”, hồ sơ được gửi lên Bộ Nội vụ và “bi kịch” của những tấm lòng bác ái xảy ra bắt đầu từ đây.

Hồ sơ bị ngâm, những người sáng lập Quỹ nhận được câu trả lời lạnh lùng “lãnh đạo đi công tác”. Không chỉ một lần mà nhiều lần như thế, dẫu cho những người xót thương các em có sốt ruột đến đâu thì người có trách nhiệm vẫn “hồn nhiên” vứt hồ sơ vào ngăn kéo. Chẳng lẽ xin cấp phép cho lòng từ thiện mà cũng phải “chạy” như chạy chức, chạy quyền, chạy ghế…

Xin hỏi, cơ quan công quyền hoạt động như thế nào mà tất cả lãnh đạo đều đi công tác suốt nhiều tháng đến nỗi không có người duyệt hồ sơ, để cho công việc liên quan của xã hội bị ách tắc? Quản lý hoạt động từ thiện xã hội là việc cần phải làm ngay, không thể cửa quyền vô trách nhiệm. Trong trường hợp này, có thể thấy thói quan liêu đã ăn quá sâu trong một bộ phận cán bộ công chức, quan liêu ngay cả với lòng nhân ái.

Đất nước nghèo, trẻ em nhiều nơi còn quá cơ cực, câu thơ Nguyễn Duy viết năm nào vẫn còn đó như một lời nhắc nhở: “Xứ sở thông minh sao thật lắm trẻ con thất học, lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương. Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt, tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp, tuổi thơ bay như lá ngã tư đường… Bài Nhìn từ xa… Tổ quốc!”.

Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt bởi vì còn có những kẻ phá tiền bạc của đất nước này hàng chục, hàng trăm nghìn tỉ đồng, bởi vì có những kẻ làm giàu bằng vô số mánh khoe đục khoét tài sản quốc gia và bởi vì có nhiều trái tim “hồn nhiên” thờ ơ với nỗi đau của biết bao thân phận con người.
  
Lê Chân Nhân

Văn hóa từ chức phải khởi đầu từ Thủ tướng

Quỳnh Chi, phóng viên RFA
Phỏng vấn GS Nguyễn Minh Thuyết

Trong phiên chất vấn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa qua, ĐBQH Dương Trung Quốc cho rằng phải hướng tới đoạt tuyệt với việc xin lỗi và thay bằng một văn hóa từ chức và đây là điều mà các quốc gia tiên tiến hay làm.
Giữa lúc TT Nguyễn Tấn Dũng đang bị chỉ trích về những sai phạm nghiêm trọng trong kinh tế, phát biểu này  được đánh giá là “mạnh mẽ” và lập tức thu hút sự quan tâm trong nước và quốc tế. Trao đổi với Quỳnh Chi cùng ngày sau sau khi cuộc chất vấn kết thúc, GS Nguyễn Minh Thuyết, cựu ĐBQH cho rằng ông Dương Trung Quốc đang thực hiện trách nhiệm của mình:

GS Nguyễn Minh Thuyết: Tôi có đọc lại bản gỡ băng của Chính phủ thì tôi thấy rằng ĐHQH Dương Trung Quốc đã đặt vấn đề rất thẳng thắn nhưng cũng rất tế nhị. Ông còn viện dẫn một số tiền lệ trong lịch sử. Tôi nghĩ là ĐBQH Dương Trung Quốc đã nói lên ý kiến của số đông người dân. Nói về trách nhiệm của ĐBQH thì ông đã thực hiện được trách nhiệm của mình. Đặc biệt là so với phát biểu, hoạt động của ĐBQH nhiều nước khác thì phát biểu của ông Dương Trung Quốc cũng chỉ là thực hiện đúng nhiệm vụ của mình thôi.
Quỳnh Chi: Văn hóa từ chức ít được nói đến nhiều tại Việt Nam và hiện tượng này cũng ít xuất hiện ở Việt Nam. Vì sao đây là lúc người ta nói đến văn hóa từ chức?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Trong lịch sử Việt Nam cũng đã có rất nhiều người treo ấn từ quan vì nhiều lý do khác nhau nhưng đều xuất phát từ lòng tự trọng cao. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, rất nhiều công việc Nhà nước được giao vào tay một số vị mà không hoàn thành đầy đủ công việc của mình; thậm chí có những sai phạm rất lớn đáng lẽ phải chịu trách nhiệm, bị cách chức. Tuy nhiên, đến từ chức còn không thấy. Như thế thì sẽ ảnh hưởng đến công việc quốc gia. Vì vậy mà ĐBQH Dương Trung Quốc và nhiều người đã phải nói đến văn hóa từ chức.
Quỳnh Chi: Một số người cho rằng chủ trương “phê và tự phê” của ĐCSVN ở một khía cạnh nào đó làm giảm đi sự xuất hiện của văn hóa từ chức. Ông có đồng ý với ý kiến này?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Tôi không nghĩ điều này đúng. Bởi nếu thực hiện đúng nguyên tắc “phê bình và tự phê bình” một cách nghiêm túc thì người có khuyết điểm phải tự phê bình một cách sâu sắc nhất và phải tự mình áp dụng hình thức chế tài thích hợp vì quyền lợi chung. Một trong những chế tài là từ chức. Nếu “phê bình và tự phê bình” được thực hiện nghiêm túc thì dẫn đến kết quả như vậy. Tuy nhiên, theo quan sát cho thấy nhiều người đã không thực hiện nhiệm vụ, thậm chí có những sai phạm lớn mà vẫn không chịu từ chức. Điều này chứng tỏ “phê bình và tự phê bình” chưa được thực hiện tốt.
Quỳnh Chi: Thế thì một văn hóa từ chức có thể mang đến những ảnh hưởng như thế nào?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Quan sát chính trường của rất nhiều nước, nhất là những nước văn minh và dân chủ thì tôi thấy những người được giao trách nhiệm và thấy mình không đủ sức khỏe hoặc năng lực để đảm nhận công việc, hoặc khi phải chịu trách nhiệm về những sai phạm lớn trong công việc mình phụ trách thì họ từ chức. Việc này thể hiện lòng tự trọng cao và cũng giúp có lợi cho công việc. Nước Việt Nam có gần 90 triệu dân, không thiếu gì người tài. Nếu ai cứ được cử vào một chức vụ nào đó mà dù làm không được việc  mà vẫn “ngồi” đấy cho đến hết khóa thậm chí kéo dài nhiều khóa thì làm sao chọn được những người tài để gánh vác công việc? Như thế thì hỏng việc chung của đất nước.

Phải có người khởi đầu
Quỳnh Chi: Nghĩa là ông cũng đồng ý với ý kiến của ông Dương Trung Quốc khi nói rằng văn hóa từ chức là “cho sự tiến bộ của Chính phủ”?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Vâng, tôi đồng ý và tôi cũng tán thành ý kiến của ông Dương Trung Quốc là phải có người khởi đầu.
Quỳnh Chi: Vậy thì tại sao sự khởi đầu ấy phải bắt đầu từ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Trước hết, Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ. Nếu Thủ tướng có những động thái rất quyết liệt và gương mẫu thì cũng làm gương cho những người khác. Thứ hai, thực sự công việc của Chính phủ có rất nhiều yếu kém, nhiều sai lầm dẫn đến nền kinh tế xuống dốc. Thứ nữa là có khá nhiều tập đoàn kinh tế được mở ra một cách vội vàng nhưng hoạt động yếu kém mà còn để xảy ra thất thoát, tham nhũng, thua lỗ, nợ nần chồng chất. Tôi nghĩ phải có người chịu trách nhiệm về vấn đề đó. Và, có rất nhiều quyết định, dự kiến của các bộ, ngành mà khi đưa ra công luận thì rất là phi lý.
Quỳnh Chi: Nên hiểu về văn hóa từ chức như thế nào? Nó có thay thế được trách nhiệm pháp lý kể cả đối với những người lãnh đạo đất nước và những người giữ các chức vụ cao?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Ở nhiều nước, người ta phải từ chức vì bên cạnh việc muốn thể hiện lòng tự trọng, tin thần trách nhiệm đối với công việc của mình, đối với đất nước, đối với nhân dân thì còn vì một lý do nữa. Đó là nếu không từ chức thì đằng nào cũng bị cách chức. Cho nên, pháp luật vẫn là tối thượng. Chế tài pháp luật là điều mà trước tiên phải được xem xét, tôn trọng và nhìn nhận.
Quỳnh Chi: Câu hỏi cuối thưa ông, phát biểu của ông Dương Trung Quốc cùng với bình luận của giáo sư khá thẳng thắn. Các ông có quan ngại nó sẽ ảnh hưởng đến cá nhân mình?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Tất cả mọi người đều phải nghĩ đến cuộc sống của mình và lo cho mình. Đó là chuyện tự nhiên. Chúng tôi là những người trí thức thì không thể nói dối hay che giấu ý kiến của mình. Đặc biệt với trách nhiệm trước nhân dân, tổ quốc thì chúng tôi thấy là dù có phải như thế nào cũng phải nói lên ý kiến của mình. Dĩ nhiên những ý kiến ấy phải đảm bảo đúng sự thật và pháp luật. Còn nếu vì nói những ý kiến thẳng thắn ấy mà bị lãnh hậu quả thì nói thật là những điều ấy chỉ xảy ra ở những nước phát xít và độc tài thôi.
Quỳnh Chi: Xin cám ơn GS Nguyễn Minh Thuyết.

Xin được nhắc lại. Trong phiên trả lời chất vấn được truyền hình trực tiếp hôm thứ Tư (14 tháng 11) của TT Nguyễn Tấn Dũng, ĐBQH Dương Trung Quốc cho rằng “Đã đến lúc phải đề cao trách nhiệm pháp luật” và khuyến nghị khởi đầu cho sự tiến bộ của Chính phủ hướng đến một văn hóa từ chức. Phát biểu được đưa ra trong bối cảnh có nhiều sai phạm, tuột dốc và bất cập trong hoạt động của Chính phủ và Nhà nước ở lĩnh vực kinh tế và quản lý. Trả lời chất vấn của ông Dương Trung Quốc, TT Nguyễn Tấn Dũng nói rằng vẫn sẽ “tiếp tục nhiệm vụ” của mình.

Thứ Năm, 18 tháng 10, 2012

Bản án trong lòng dân

(Dân trí) - Tại buổi tiếp xúc cử tri quận 1 và quận 3, TPHCM ngày 17.10 của Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, một nội dung được cử tri đặt ra đầy bức xúc, đó là tham nhũng.

Có ý kiến cho rằng, tham nhũng còn đe dọa và nguy hiểm đối với đất nước hơn cả giặc ngoại xâm. Bởi vì từ xưa đến nay, giặc nào ta cũng thắng nhưng hiện nay giặc tham nhũng vẫn cứ ngang nhiên tồn tại trên đất nước này.


Chủ tịch Trương Tấn Sang chia sẻ với sự bức xúc của các cử tri. Ông cho rằng, dù rất đau lòng nhưng cũng phải thừa nhận tham nhũng rất nghiêm trọng. Ông dẫn chứng: “Việt Nam xây 1 km cầu đường phải đầu tư gấp đôi các nước khác. Trong đó, chắc chắn có yếu tố tham nhũng”.

Một cử tri phát biểu: “Chủ tịch Nước từng nói đừng để có lỗi với tiền nhân, nhưng không phải là có lỗi, mà là có tội với tiền nhân”. Có rất nhiều ý kiến phê phán mạnh mẽ tệ nạn tham nhũng và mong muốn Đảng, Nhà nước phải dẹp cho bằng được thì mới yên lòng dân, giữ được nước. Người dân lên án tham nhũng như vậy chứng tỏ lòng dân chưa thật sự tin vào hiệu quả của công tác phòng chống tham nhũng trong thời gian qua.

Ai cũng biết tham nhũng không chỉ là tiền bạc, của cải quốc gia bị rơi vào túi quan tham, mà còn có những thiệt hại khác đổ xuống đầu người dân. Ngân sách quốc gia bị cạn kiệt thì lấy tiền đâu để xây trường học, bệnh viện, lấy tiền đâu để xây dựng đường xá, công trình phục vụ phát triển kinh tế và nhu cầu dân sinh.

Mới đây, Bộ Tài chính thông báo có khả năng sẽ không tăng lương theo lộ trình năm 2013 vì không đủ nguồn vốn bố trí. Vậy là người lao động nghèo làm công ăn lương lại khó khăn hơn. Đó không phải là hậu quả của tham nhũng hay sao?

Tham nhũng còn đáng sợ hơn nữa, bởi vì nó phá hoại giềng mối đạo đức xã hội, làm mất niềm tin của dân chúng vào chính quyền.

Chủ tịch Trương Tấn Sang kêu gọi dân mạnh dạn tố cáo tham nhũng: “Chúng tôi có 14 đồng chí trong Bộ Chính trị là có 28 con mắt, nhưng toàn dân có gần 90 triệu người, tức là có gần 180 triệu con mắt thì người dân thông minh hơn nhiều và có thể nhìn thấy mọi điều, mọi nơi, mọi chỗ”.
 
Đúng vậy, nhân dân thông minh và công minh. Cho dù chưa có nhiều quan tham bị lôi ra ánh sáng nhưng dân biết rõ ai liêm chính, ai thoái hóa. Làm sao qua được trí tuệ của nhân dân, làm sao đánh lừa được niềm tin của nhân dân.

Từ xưa, dân nước mình đã có tập quán lập đền thờ để thờ cúng những văn quan, võ tướng tài đức, biết yêu dân, thương nước. Ngược lại, những quan tham lam vô đức vô năng thì không có chỗ trong lòng dân.

Bản án của tòa án còn có hạn định nhưng bản án trong lòng dân thì muôn đời lưu truyền, phải không các bạn?

Lê Chân Nhân

Thứ Tư, 17 tháng 10, 2012

Nay phải dứt khoát trả nợ với dân

(Dân trí) - Đó là lời bà Nguyễn Thị Hoài Thu, Nguyên Chủ nhiệm UB Các vấn đề xã hội. Bà Thu nói nguyên văn: “Đó là món nợ với dân suốt 11 năm qua chưa trả. Quốc hội trải qua nhiều nhiệm kỳ nhưng vẫn còn nợ lại thì nay phải dứt khoát trả nợ với dân”.

(Minh họa: Hồng Anh)
(Minh họa: Hồng Anh)
 
 
Theo dự kiến, ngày 22/10 sắp tới, Quốc hội sẽ khai mạc Kỳ họp thứ 4. Theo đó, Quốc hội sẽ cho ý kiến về Luật Việc làm, dự án Luật Thủ đô; Luật Đầu tư công; Luật Hợp tác xã (sửa đổi); Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực… Đặc biệt, Thường vụ Quốc hội sẽ trình Quốc hội Nghị quyết về quy trình, thủ tục, cách thức lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.

Nếu như dự thảo trên được thông qua tại kỳ họp tới thì đây được coi là Quốc hội đã trả món nợ dai dẳng suốt 11 năm, qua ba nhiệm kỳ Quốc hội với cử tri của mình.

Xin được nhớ lại, cách đây 11 năm, ngày 25/12/2001, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X đã ban hành Luật Tổ chức Quốc hội. Trong đó, Điều 12 qui định: “Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn...”
Ngày 7/1/2002, Chủ tịch Nước Trẩn Đức Lương đã ký Lệnh công bố Luật này. Thế nhưng từ thời điểm đó đến nay, sau rất nhiều lần bàn thảo, Điều 12 của Luật Tổ chức Quốc hội vẫn chưa đi vào cuộc sống. Nói gì thì nói, một chủ trương, một chính sách hay một điều luật sau ngần ấy thời gian mà không đi vào cuộc sống không thể nói là một thành công. 

Có lẽ chính vì vậy tại cuộc gặp gỡ giữa Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng và Đoàn đại biểu Quốc hội TP HCM, bà Nguyễn Thị Hoài Thu, Nguyên Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội đã nhấn mạnh: “Đó là món nợ với dân suốt 11 năm qua chưa trả. Quốc hội trải qua nhiều nhiệm kỳ nhưng vẫn còn nợ lại thì nay phải dứt khoát trả nợ với dân”. Cũng tại cuộc gặp gỡ trên, ông Huỳnh Năm, nguyên Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng cũng cho rằng đáng lẽ việc lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm phải thực hiện từ lâu. “Giờ mới lấy ý kiến góp ý về việc này thì tôi thấy hơi muộn, nhưng dù sao muộn còn hơn không” - ông Năm nói.

Vì vậy mình tin rằng tại Kỳ hợp Quốc hội lần này, Điều 12 của một Luật do chính Quốc hội ban hành sẽ được thông qua bởi không thể thêm một lần nữa, Quốc hội lại lỗi hẹn với dân.

Bạn có mong muốn như mình không?
Bùi Hoàng Tám

Vì sao cụ Tổng khóc?

Tối 15 mình đang nhậu thì có tin nhắn của cu Vinh: ” Anh xem ti vi không, cụ Tổng đang bế mạc hội nghị, có 3 giây cụ nghẹn lại suýt khóc”. Với ai thì mình nói ngay đó là nước mắt cá sấu nhưng riêng cụ Tổng thì minh tin cụ khóc thật. Dù cụ Tổng là nhà lý luận rất chi là bôn sệt nhưng cụ có tấm lòng vì dân vì nước.  Biết cụ từ những năm 80, mình  bảo đảm đó là điều chắc chắn.

Vì sao cụ Tổng khóc?

Nhiều người bình luận ngược xuôi nhưng theo mình có hai ý như vầy: Một là, trả lời pv BBC, ông Lê Đăng Doanh cho rằng Trung ương Đảng không theo Bộ Chính trị, điều chưa từng xẩy ra ( Tại đây): “Việc Bộ Chính trị không thuyết phục được Ban Chấp hành Trung ương là điều khiến mọi người ngạc nhiên. Đây là điều mà tôi thấy hiện nay chưa giải thích được, và chưa biết được rằng hệ quả sẽ như thế nào ?”. Mình nghĩ việc TW bác bỏ đề xuất của BCT cũng có thể là một dấu hiệu tốt, báo hiệu sinh hoạt dân chủ trong đảng. Nhưng mặt khác nó cho thấy quyền lực BCT đã xuống cấp. Cụ Tổng khóc vì cụ biết cụ chỉ nắm được 14 người, không thể nắm được 175. Đó là một thất bại đắng cay, không khóc mới là chuyện lạ.

Hai là, Thùy linh trong bài Ma sát ( Tại đây). “Hội nghị TW6 vừa qua đã bỏ lỡ mất một vận hội thu phục nhân tâm của đông đảo người dân khi họ nhất loạt ngưỡng vọng về sự thay đổi tốt đẹp. Không một thế lực thù địch nào có thể xúi người dân thả thuốc độc xuống dòng sông mà họ đang dùng. Chính quyền mong muốn ổn định chính trị bao nhiêu thì người dân cũng mong muốn ổn định đời sống bấy nhiêu, nhưng không thể là cách ‘ổn định’ bằng bạo lực và áp chế”. Đây là một nhận định cực kì chính xác. Cụ Tổng phất cao ngọn cờ chỉnh đốn cũng vì mục đích lấy lại niềm tin của dân, bởi vì nếu đánh mất niềm tin của dân tức là đánh mất Đảng, mất chế độ, điều mà một người yêu Đảng, yêu chế độ đến mụ mị như cụ Tổng không thể chấp nhận được.

Cơ hội ngàn vàng để lấy lại niềm tin của dân đã tuột khỏi tay cụ Tổng. Ngọn cờ chỉnh đốn cụ Tổng phất cao để bảo vệ chế độ xem chừng mất hết ý nghĩa lớn lao của nó. Bây giờ ngọn cờ ấy vẫn bay phấp phới, lại được ti vi của anh Trần Bình Mình, báo Nhân dân của anh Thuận Hữu ra sức làm cho nó phấp phới hơn, nhưng còn mấy ai tin cuộc chỉnh đốn sẽ thành công?

Vậy thì hà cờ gì một người  yêu đảng, yêu chế độ đến mụ mị như cụ Tổng lại không khóc?

Nguyễn Quang Lập

Thứ Hai, 15 tháng 10, 2012

Công viên nòng nọc và chủ nghĩa hình thức

Những người dân thủ đô không phải ai cũng có bằng tiến sĩ nhưng ai cũng biết ai là mới thực sự là “Nguyễn Phế Thải”

Tại kỳ họp HĐND TP chiều 10-12- 2010, phản ứng trước ý kiến của các đại biểu cho rằng chất lượng các công trình 1000 năm Thăng Long - Hà Nội không tốt, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo bức xúc: “Có công trình tốt, có công trình chưa tốt, có hạng mục tốt, hạng mục chưa tốt, song nếu đánh giá chất lượng công trình không tốt là không công bằng”. Ông còn nói thêm rằng: “Chỗ này sụt lún, mẻ vữa vài viên gạch mà đánh giá cả công trình chưa tốt là không khách quan. Chủ nghĩa hình thức giờ đã không còn”.
 
Ông Chủ tịch cáu cũng là phải, bởi mới 2 tháng sau Đại lễ mà đã nói đến chuyện “chất lượng” các công trình mà “hoa khánh thành còn chưa kịp héo”, kể cũng là “khiếm nhã”, hoặc “lo bò trắng răng”. Nhưng giờ đây, có lẽ Chủ tịch Thảo chắc sẽ nghĩ lại bởi sau 2 năm, nhiều “lún sụt”, nhiều “mẻ vữa” đến mức nó giống với biểu hiện của “chủ nghĩa thành tích” tại hầu hết các công trình gắn mác “1000 năm”.
 
Tại công trình “biểu tượng cho sự lãng phí” mang tên Bảo tàng Hà Nội sai phạm xảy ra trong công tác chọn nhà thầu, quản lý đầu tư dự án, lựa chọn vật liệu…Chính UBND TP đã có “lựa chọn không đúng” khi thay đổi chủ đầu tư nên gây ra nhiều vướng mắc trong triển khai xây dựng. Kết quả là đến khi dự án hoàn thành nhưng tổng dự toán công trình  vẫn chưa được phê duyệt. Nhưng, lớn hơn cả gần 7 tỷ đồng sai phạm, là việc 54.000 m2 và tòa nhà cao 30m với vốn đầu tư 2.300 tỷ đồng này đang trở thành “căn nhà hoang khổng lồ nhất Thủ đô”. Hàng xóm của Bảo tàng Hà Nội, công viên Hòa Bình, được xem là thiết kế đẹp nhất, hiện đại nhất thủ đô, xuống cấp ngay khi vừa hoàn thành. Và giờ, đá xanh ngả vàng; lún nứt khắp nơi, trở thành một thứ “công viên nước” dành cho bọ gậy tập bơi. Ngược ra sông Hồng, “Con đường gốm sứ ven sông Hồng”, từng được Tổ chức Kỷ lục Guinness thế giới chính thức tuyên bố và trao bằng công nhận lập kỷ lục là bức tranh ghép gốm sứ lớn nhất thế giới giờ đang thất thanh kêu cứu với “nứt toác, bong tróc, thậm chí có những bức tranh “tuột” hẳn khỏi triền đê. Thật đau khổ, con đường gốm sứ, con đường Guinness vừa “vô chủ”, vừa “hữu sinh vô dưỡng” đến nỗi nó trở thành, “con đường xú uế”.
 
Và nói đến “1000 năm”, không thể không nhắc đến đường 32, con đường mà cách đây 2 năm, vào sáng 11-9, chính Chủ tịch Nguyễn Thế Thảo cũng đã đi thị sát và sau đó đưa ra tuyên bố: Phải hoàn thành công trình trong thời gian sớm nhất. Thưa ông Chủ tịch, đường 32 đáng lẽ phải hoàn thành vào dịp đại lễ, nhưng đến giờ, nó vẫn là “con đường đau khổ”.
 
Những người dân thủ đô không phải ai cũng có bằng tiến sĩ nhưng ai cũng biết ai là mới thực sự là “Nguyễn Phế Thải”. Không phải ai cũng là kiến trúc sư để lý luận về “Chủ nghĩa hình thức”. Nhưng việc không muốn nhìn vào thực tế, nhưng việc quá giang để đưa ra một tuyên bố chắc nịch về một mốc thời gian không xác định, và một đi không trở lại, bất kể sự thể, thì có lẽ khó có thể gọi khác đó là hình thức.

Theo Blog Đào Tuấn

Thứ Ba, 9 tháng 10, 2012

Bôxít Tân Rai: Mỗi năm Vinacomin lỗ ít nhất 33 triệu USD

SGTT.VN - Trong tháng 9.2012, viện CODE (thuộc liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam) đã mời đoàn chuyên gia khai khoáng đi thị sát tình hình thi công và chuẩn bị vận hành của hai dự án alumin tại Lâm Đồng và Dăk Nông.
TS Nguyễn Thành Sơn. Ảnh: Chí Hiếu

Chuyến đi kết thúc, phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị đã có cuộc phỏng vấn TS Nguyễn Thành Sơn, thành viên của đoàn, giám đốc ban quản lý các dự án than đồng bằng sông Hồng thuộc tập đoàn Công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam (Vinacomin).

Những con số đáng báo động

Thưa ông, những gì nhìn thấy ở hai dự án Tân Rai, Nhân Cơ mới đây có gì khác với những điều ông hình dung trước kia về chương trình alumin không?
Những điều quan trọng nhất thì chẳng có gì “khác” cả. “Bùn đỏ” – vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm, vẫn được thải bằng công nghệ “ướt” rẻ tiền và nhiều rủi ro. Hồ bùn đỏ ban đầu cũng đã chiếm quá nhiều diện tích thuộc loại “bờ xôi, ruộng mật”. Công nghệ Trung Quốc lạc hậu thì ngày càng rõ (phân xưởng khí hoá than sử dụng công nghệ của những năm 60 (thế kỷ 20 – PV) và phải dùng than cục tốt của Hòn Gai loại 4A). Nhà thầu Trung Quốc dây dưa, dự án chậm tiến độ cũng chẳng có gì là mới. Tổng mức đầu tư đã tăng lên (vốn “thử nghiệm” hai dự án đã gần 1,5 tỉ đôla Mỹ) cũng chẳng làm ai ngạc nhiên.

Qua chuyến khảo sát, ông thấy điều gì đã cản trở tiến độ dự án?
Nhà thầu nước ngoài chưa chịu bàn giao phần việc của mình chỉ là lý do chậm tiến độ. Khâu “tắc” nhất của dự án Tân Rai bây giờ là phần việc mà chủ đầu tư đảm trách – khâu tuyển bôxít sau khi khai thác, trước khi đưa vào luyện thành alumin. Việc đơn giản, dễ làm nhất là thiết kế dây chuyền tuyển bôxít. Công việc này được ưu tiên chỉ định cho “nội lực” là viện Khoa học công nghệ mỏ của Vinacomin triển khai. Bãi thải quặng đuôi – một hạng mục lẽ ra chẳng có gì đáng bàn, nhưng được các “nhà khoa học” của viện Khoa học công nghệ mỏ thiết kế còn rủi ro hơn bãi thải bùn đỏ của nhà thầu Trung Quốc. Nước thải đầu ra của xưởng tuyển được thải trực tiếp vào nguồn nước đầu vào (đầu ra của bể “phốt” chính là bể nước ăn), v.v. Tổng đầu tư cho xưởng tuyển bôxít này khoảng 300 tỉ đồng, việc xây lắp đã hoàn tất từ lâu, nhưng tư vấn thiết kế vẫn đang tiếp tục “nghiên cứu thí nghiệm” để “hiệu chỉnh thiết kế” ở Hà Nội… Vinacomin cần làm rõ trách nhiệm nội bộ trước khi đổ lỗi cho người ngoài.

Tại thời điểm này, bài toán kinh tế về tổng thể của các dự án alumin Việt Nam có thể nhẩm tính ra kết quả lỗ lãi thế nào, thưa ông ?
Dự án Nhân Cơ chưa xong, chưa có cơ sở để tính toán. Dự án Tân Rai đã gần như hoàn tất, nhưng chậm tiến độ gần hai năm, có thể “nhẩm” được bài toán đơn giản nhất như thế này: chậm tiến độ một năm, riêng lãi suất huy động vốn trong quá trình xây dựng (IDC) đã làm tăng tổng mức đầu tư thêm gần 1.100 tỉ đồng.
Khi đi vào hoạt động, giả sử trường hợp lý tưởng: tổng vốn đầu tư đã được điều chỉnh của Tân Rai chỉ dừng lại ở mức 15.600 tỉ đồng, lãi suất huy động vốn tạm tính 7%/năm, thời gian huy động vốn là mười năm, trả vào cuối kỳ, riêng chi phí hoàn trả vốn đầu tư (cả gốc và lãi) đã lên tới 2.220 tỉ đồng/năm.
Nếu đạt 100% công suất thiết kế (0,6 triệu tấn/năm), mỗi năm nhà máy sẽ phải tiêu dùng khoảng: 1,2 triệu tấn bôxít qua tuyển (khai thác tại chỗ); 0,4 triệu tấn than cám (giá FOB tại Quảng Ninh khoảng 1,6 triệu đồng/tấn); 0,2 triệu tấn than cục (giá FOB tại Quảng Ninh khoảng 4 triệu đồng/tấn); khoảng 0,1 triệu tấn hoá chất và đá vôi (vận chuyển ngược từ xa tới), v.v. Nếu tính “vo”, tổng chi phí vận hành khoảng 2.500 tỉ đồng/năm. Như vậy, giá thành alumin xuất xưởng tại Tân Rai thấp nhất cũng khoảng 375 USD/tấn.
Tôi đã tham khảo giá nhôm trên thế giới và có nhận định: nếu giá nhôm kim loại trên thế giới năm 2013 sẽ đạt mức 2.300 USD/tấn, thì giá xuất khẩu alumin của Vinacomin ở ven biển tối đa khoảng 345 USD/tấn. Như vậy, nếu tính chi phí tiêu thụ (vận chuyển, bốc – dỡ, hao hụt) khoảng 25 USD/tấn và thuế xuất khẩu theo quy định là 20%, thì mỗi tấn alumin sẽ lỗ khoảng 124 USD, Vinacomin lỗ 74,4 triệu USD/năm. Trong trường hợp “thuận buồm xuôi gió” nhất (được miễn cả thuế xuất khẩu – và ngân sách tạm thời chưa nộp ngân sách), mỗi tấn alumin sẽ lỗ ít nhất 55 USD, và mỗi năm Vinacomin lỗ ít nhất 33 triệu USD.

Tây Nguyên, “vốn để dành”

Theo ông, quyết tâm làm alumin theo cách hiện nay sẽ dẫn đến những hệ quả gì đối với Tây Nguyên và cả nước?
Đối với Tây Nguyên và cả nước, còn cần phải tính đến vấn đề sinh thái. Hậu quả về sinh thái nguy hiểm hơn nhiều, nhưng bây giờ chưa thể hiện. Còn đối với Vinacomin, nếu cứ quyết tâm làm thử nghiệm đến cùng thì bôxít sẽ gặp phải những thiệt hại kinh tế. Khoảng 99,36% lợi nhuận thu được để Vinacomin đầu tư vào các dự án kinh doanh đa ngành (trong đó có các dự án bôxít – alumin) có nguồn gốc từ ngành than. Nếu ngành than bị mất vốn đã đầu tư vào bôxít, và trong tương lai vẫn phải tiếp tục “gánh” lỗ cho bôxít (74,4 triệu USD/năm như phân tích ở trên), thì bôxít còn ảnh hưởng lan toả đối với cả nền kinh tế.

Cảm tưởng của ông sau chuyến đi?
Ngày 1.11.2012 nhà máy chạy thử
Chiều 5.10, làm việc về dự án bôxít Tân Rai (huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng), thứ trưởng bộ Công thương Lê Dương Quang yêu cầu tập đoàn Công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) và ban quản lý dự án bôxít Tân Rai chốt mốc cuối cùng chạy thử nhà máy alumin vào ngày 1.11. Mốc thời gian vận hành nhà máy được ban quản lý dự án công bố, liên tục dời nhiều lần, từ tháng 4, tháng 6, tháng 10.2012.
Buồn nhiều hơn vui. Buồn vì những cảnh báo của các nhà khoa học cách đây 3 – 4 năm đang dần trở thành đúng. Bởi, sau khi Vinacomin quyết tâm làm, đẩy tổng vốn thử nghiệm của cả hai dự án lên tới 1,5 tỉ đôla Mỹ thì trong thâm tâm, tôi cũng phải cầu mong cho việc thử nghiệm thành công. Rất tiếc, việc triển khai dự án đến nay đã cho thấy rõ kết quả như dự báo ban đầu là: chậm tiến độ một cách toàn diện, vốn đầu tư tăng toàn diện… Cả hai dự án thử nghiệm đang trong tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”. Kể cả bây giờ, tôi vẫn muốn khuyên Vinacomin hai điều: thứ nhất, dũng cảm xin Chính phủ cho dừng dự án Nhân Cơ, chờ thử nghiệm Tân Rai “trót lọt”, nếu có hiệu quả hãy triển khai tiếp Nhân Cơ; và thứ hai, hãy tập trung nguồn lực (vốn, thời gian, cán bộ…) để phát triển ngành than ở Quảng Ninh. Trong tình cảnh của Vinacomin bây giờ, tiết kiệm được 1 đồng, giảm tổn thất được 1 đồng cũng quý (dừng Nhân Cơ cũng tiết kiệm được vài trăm triệu đôla Mỹ). Còn trong tình cảnh chung của đất nước: không có alumin thì Tây Nguyên vẫn phát triển được, còn thiếu than thì cả nền kinh tế sẽ gay go.

Ông có suy tư gì sau chuyến đi vừa qua?
Chúng tôi đã “rong ruổi” ba ngày từ Buôn Ma Thuột, ghé Nhân Cơ, thăm Tân Rai rồi xuống Kê Gà (Bình Thuận). Chúng tôi quan sát, đánh giá và gặp gỡ những người có trách nhiệm. Điều có thể nhận thấy là các dự án bôxít sẽ triệt tiêu rất nhanh và rất mạnh các nguồn tài nguyên đất, tài nguyên nước, và tài nguyên sinh học của Tây Nguyên. Trước hay sau, sớm hay muộn chúng ta cũng phải “loại bôxít ra khỏi tiềm năng kinh tế của Tây Nguyên”, như tôi đã đề nghị cách đây 23 năm trong bài viết trên tạp chí Năng Lượng (số 11/1989).
Về mặt chiến lược phát triển đất nước lâu dài, tài nguyên thiên nhiên (đất, nước và sinh học) của Tây Nguyên quý hơn vạn lần tài nguyên khoáng sản (bôxít). Nếu được quy hoạch và tổ chức tốt, Tây Nguyên có đủ nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên để phát triển một cách bền vững.
Hoàng Nguyên (thực hiện)

Thứ Hai, 1 tháng 10, 2012

Làm dân khó lắm, phải đâu chuyện đùa

Hình như làm dân càng ngày càng khó. Chuyện này đúng ra phải thuê một vài nhà khoa học nghiên cứu cho đến nơi đến chốn, chứ không thể phán bừa được.
Vừa rồi được nghe một vài vị cán bộ phàn nàn về dân nhiều quá, tức khắc ai cũng có cảm giác gờn gợn, nên chỉ dám dùng chữ “hình như”. Mà hình như là khó thật.




Có vị chê dân trí thấp nên phải nuôi mấy ngân hàng xấu, có vị khác thì bảo dân trí thấp nên mới… hổng chịu làm đường sắt cao tốc như ông nghị ở Hà Nam, lại có vị bảo dân phải hy sinh cho thủy điện. Thực tình dân cũng không biết phải làm gì ngoài đóng thuế để các vị quản lý và giải quyết các loại sự vụ xảy ra trong cái xã hội nhiều rắc rối rất nhức đầu này. Thậm chí dân Quảng Nam ngày đêm lo lắng tưởng như chết đến nơi, có vị tiến sĩ còn bảo, đại khái là, mới có động đất một tí mà đã nháo nhác hết cả lên.
Ngày xưa dân mình làm gì có thủy điện. Đến thời Pháp thuộc chúng ta mới có vài cái thủy điện nhỏ. Ngày trước vì không có thủy điện, nên chẳng có cái gọi là động đất kích thích, nứt đập sông đập suối này nọ. Đâm ra chẳng có cán bộ nào mắng dân là mới có thế đã dắt trâu bò, gói ghém đồ đạc bỏ chạy. Cũng vì thế mà chẳng có cán bộ nào bảo dân phải “chia sẻ và hy sinh” cho cái thủy điện không biết vỡ đập lúc nào. Dân Quảng Nam hồi đó, về cơ bản là không bị mắng, cũng không có thiệt hại gì vì một cái thủy điện.
Đầu năm, ông nghị Hoàng Hữu Phước phát biểu: “Chưa cần luật biểu tình, vì dân trí ta còn thấp”. Cuối năm, ông Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình lại cho rằng: “Do dân trí thấp, nên Nhà nước phải nuôi báo cô mấy ngân hàng xấu”. Ngày xưa dân mình cũng chẳng mấy khi đến ngân hàng. Mãi năm 1951 mới có Ngân hàng Nhà nước. Vậy nên không thấy có bằng chứng lịch sử nào ghi lại lời một quan chức ngân hàng chê dân trí thấp nên Nhà nước phải nuôi báo cô mấy ngân hàng làm ăn thua lỗ. Chưa hết, trên lĩnh vực văn hóa, trước tình trạng chân dài váy ngắn hở hang biểu diễn, ông cục trưởng quản lý biểu diễn lên TV tuyên bố “nói chung là dân trí chúng ta còn thấp…” đến nỗi một nhà văn hóa chịu hết thấu phải lên tiếng: Việc quản lý của ông ấy thấp nên mới để xảy ra tình trạng âm nhạc như thế. Nhờ sống chung với cái dân trí thấp nên nay ông cục trưởng đã… thăng chức thứ trưởng (!).
Ngày xưa, 95% dân số Việt Nam mù chữ. Cán bộ Việt Minh, đảng viên đi vận động từng người dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Không ai bảo dân trí thấp thì không làm được cách mạng. Tình trạng dân trí thấp được chính Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đó giải thích là hậu quả của chính sách ngu dân thời kỳ thực dân – phong kiến, “chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”, làm cùn mòn trí tuệ và nô dịch dân ta trong sự dốt nát.
Cách mạng thành công, chính quyền mới không ai chê dân dốt, mà thấy việc nâng cao dân trí là trách nhiệm của mình. Chính quyền cách mạng phát động phong trào diệt giặc dốt. Người người, nhà nhà tham dự các lớp “bình dân học vụ”, hoàn toàn miễn phí. Cán bộ dạy chữ cho dân, các ông bà giáo dạy chữ cho dân, động viên dân phải giết cái thằng giặc dốt đi thì cuộc sống mới khá được. Hồi đó dân trí thấp hơn bây giờ thật nhưng cán bộ không chê, nên làm dân vẫn dễ.
Thế rồi cán bộ được đi nước ngoài, được học hành đến nơi đến chốn, thậm chí trong khi dân ở nhà đang vắt kiệt nguồn lực để kháng chiến chống Mỹ thì họ được cử đi Liên Xô, Đông Âu học, nuôi dưỡng một thế hệ cán bộ cho công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh. Thế nhưng thành tài rồi lại có người trong số họ quay ra trách dân thế nọ thế kia, cứ như ô tô các vị đang đi, tiền lương các vị đang nhận, cái nhà công vụ các vị đang ở, thậm chí cả cái mảnh bằng thạc sĩ, tiến sĩ của các vị, không phải từ mồ hôi nước mắt của dân mà ra.
Đâm ra làm dân càng ngày càng khó. Có khi khó quá thế này, dân nên… từ chức đi!
Hữu Long
Theo PLTP

Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2012

TUYÊN BỐ CỦA NHÀ VĂN-NHÀ BÁO TRẦN NHƯƠNG VỀ VIỆC TIN TẶC TẤN CÔNG TRANG TRANNHUONG.COM

Trang Trannhuong.com ra đời vào cuối năm 2006. Đây là một trang cá nhân với văn chương hội họa hiền lương. Qua gần 6 năm hoạt đông, TNc đã lưu giữa hàng triệu bài của bầu bạn, của bạn đọc. Đã có gần 12 triệu lượt người truy cập từ khắp thế giới. Với tinh thần dân chủ, trang TNc có nhiều cuộc trao đổi nhằm bảo vệ sự trong sạch của văn chương, có nhiều ý kiến xây dựng, có ý kiến đã được cơ quan ghi nhận. 

Trannhuong.com đã tổ chức 2 cuộc thi “10 câu khúc khích” và thi Câu đối, đã tổ chức trao Giải Văn chương Trannhuong.com, được dư luận trong và ngoài nước hoan nghênh.

Vậy mà bọn tin tặc thù ghét. Cùng với Trannhuong.com các trang Lethieunhon, Truongduynhat, Badamxoe, Nguyentuongthuy cũng bị tấn công.

Trang Trannhuong.com bị tin tặc tấn công vào ngày 11-9-2012, khắc phục được vào ngày 12-9, chúng lại tiến công tiếp. Dăm ngày sau vừa phục hồi thì chúng đánh ngay. Vào ngày 27-9-2012 trannhuong.com trở lại thì trưa 28-9-2012 chúng lại đang tâm tấn công lần thứ 4.

Không thể không lên tiếng vì sự bình an của công dân. Một bên là nhà văn, nhà báo Trần Nhương công khai đàng hoàng, một bên là nhóm người giấu mặt, dùng kĩ thuật tấn công một trang mạng cá nhân công khai . Hành xử như vậy chứng tỏ nhóm người này sợ hãi sự thật

Tôi kêu gọi các nhà văn đồng nghiệp hãy lên tiếng, các cư dân mạng hãy lên tiếng phản đối hành động xấu xa này, các cơ quan hữu quan hãy vào cuộc để đảm bảo bình an cho cộng đồng mạng và cuộc sống của công dân !

Đội ngũ kĩ thuật vẫn tiếp tục cho TNc xuất hiện cùng bạn đọc và khắc phục lỗ hổng kĩ thuật. Nếu tin tặc lại tấn công, các bạn không vào được Trannhuong.com, xin các bạn vào: trannhuongcom.blogspot.com, vào trang Facebook Trần Nhương.

Nay mai Trần Nhương còn nhiều trang trannhuong.com nữa phục vụ bạn đọc.

Trần Nhương
Nhà văn – Nhà báo

Thứ Năm, 27 tháng 9, 2012

Khiếu kiện đông người làm xấu hình ảnh thủ đô

Sáng 27/9, Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Thế Thảo cho rằng, việc người dân đi khiếu kiện là bày tỏ nguyện vọng cá nhân, nhưng mặc áo màu Quốc kỳ, cầm khẩu hiệu đòi đất đã "làm xấu hình ảnh thủ đô, ảnh hưởng đến ngoại giao".
Theo báo cáo của UBND TP Hà Nội, 9 tháng qua đã có 178 đoàn đông người đi khiếu kiện, chủ yếu là khiếu nại về đất đai, giải phóng mặt bằng. Nổi cộm như vụ việc của 100 công dân phường Dương Nội, 70 người phường Kiến Hưng, 40 người phường Yên Nghĩa (Hà Đông), 150 tiểu thương chợ Nghĩa Tân (Cầu Giấy), đoàn 200 người dân xã Tiên Dương (Đông Anh), bệnh binh 5 xã ở huyện Quốc Oai, 160 người dân phố Tân Mai (thị xã Xuân Mai)...
Ngoài ra, còn có một số trường hợp khiếu kiện có tổ chức, lợi dụng quyền tố cáo để kích động, xúi giục, lôi kéo tập trung đông người.
Đánh giá của UBND thành phố cho thấy, công tác chỉ đạo và giải quyết khiếu nại của chính quyền ở một số nơi còn thiếu quyết liệt, ngại va chạm, né tránh, sợ liên đới trách nhiệm. Trong khi đó, công tác quản lý đất đai của địa phương còn lỏng lẻo, để xảy ra vi phạm nhưng không giải quyết kịp thời, để tồn đọng...
Bà con tiểu thương chợ Nghĩa Tân phản đối chính sách xây chợ mới.
Tại hội nghị giao ban quận, huyện về công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến quản lý đất đai sáng 27/9, Chủ tịch Nguyễn Thế Thảo đánh giá cao công tác giải quyết đơn thư của bộ phận tiếp dân của thành phố, bởi trong 9 tháng đã tiếp 15.000 lượt người, xử lý 21.500 đơn thư, tăng 89% so với năm 2011.
Ông Thảo cho rằng, trong khi lượng đơn thư vẫn tăng mạnh thì cần thực hiện nhiều giải pháp, quan tâm đến các kiến nghị của người dân để có chính sách hỗ trợ tốt nhất mà không nên áp dụng các quy định cứng nhắc. Ông cũng yêu cầu các ngành rà soát các chính sách thu hồi đất đảm bảo đời sống của người dân khi bị thu hồi đất được bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ; đơn giản các thủ tục hành chính...
"Việc làm của bà con là bày tỏ nguyện vọng của mình, nhưng mặc áo màu Quốc kỳ, mang theo khẩu hiệu đòi đất đã làm xấu hình ảnh thủ đô, ảnh hưởng đến ngoại giao", Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Thế Thảo bày tỏ và đề nghị, khi có khiếu nại đông người, lãnh đạo các quận, huyện phải trực tiếp đối thoại với người dân, giải quyết các kiến nghị của dân để giải quyết dứt điểm các khiếu nại khi mới phát sinh.
Còn Bí thư thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị cho biết, buổi sáng ông mở cửa đã thấy người dân đứng chờ đưa đơn, 19h trở về nhà cũng có người chờ đưa đơn, chưa kể ở cơ quan cũng thường nhận đơn khiếu nại. Thời điểm này, thành phố có khoảng 200 người thường xuyên đi khiếu kiện.
Ông Bí thư ví von: "Giải phóng mặt bằng như một món ăn trên bàn tiệc, chẳng ai muốn ăn món này song vẫn cần phải ăn". Do vậy, công tác giải phóng mặt bằng là nhiệm vụ bắt buộc, không làm thì không thể thực hiện các dự án. Đô thị hóa nhanh càng nảy sinh khiếu kiện nhiều, như điển hình ở quận Hà Đông.
Theo Bí thư Nghị, các khiếu nại đúng chính sách chiếm khoảng 20%, có 20% nửa đúng nửa sai, do vậy người phụ trách giải quyết khiếu nại cần phải tìm hiểu thông tin nhiều chiều để trả lời người dân được chính xác và giải quyết tốt vụ việc.
"Tôi cho rằng cần dừng phương án xây chợ Nghĩa Tân, đề nghị Sở Thương mại đánh giá lại những cái được và chưa được khi chuyển đổi chợ truyền thống sang trung tâm thương mại", ông Nghị yêu cầu và cho rằng, hãy đặt vào vị trí người dân. Khi thu hồi đất cần hỗ trợ tốt nhất về hạ tầng công cộng, về nhà ở cho dân.
"Người giải quyết đơn thư phải có tinh thần giải quyết dứt điểm vụ việc chứ không nói là tôi làm đúng thẩm quyền, đúng thủ tục. Kể cả người dân khiếu kiện sai thì phải giải thích rõ cái sai đó", Bí thư Phạm Quang Nghị chỉ rõ.
Ông cũng yêu cầu, công tác khiếu nại tố cáo phải gắn với đấu tranh phòng chống tham nhũng và cải cách hành chính; phối hợp giám sát, kiểm tra, thanh tra công vụ đối với các cơ quan quản lý nhà nước. 

Đoàn Loan (VNExpress)

Thứ Ba, 25 tháng 9, 2012

TỘI BÔI NHỌ

Quạ ’thù dai’ ít nhất 5 năm - Tin180.com (Ảnh 1)      Triều đình Muôn Thú họp bàn chuyện các thần dân của vương quốc dám phạm húy bôi nhọ vua quan triều đình. Vua Quạ lên tiếng:
        - Hiện nay, trong vương quốc của chúng ta rất nhiều kẻ dám lợi dụng tự do, dân chủ để bôi nhọ triều đình, ta cho họp các quan đầu triều hôm nay để bàn cách giải quyết chuyện này.
         Quan tể tướng Gấu Đen bức xúc:
       - Đúng thế, các chỉ dụ của triều đình bị chúng xuyên tạc trắng trợn, như hạ thần đây cũng bị chúng bôi đen không chừa chỗ nào cả !




Gấu đen đi kiếm ăn. Ảnh: AFP.      


    Các quan lớn khác như Ngựa Ô, Mèo Mun, Chó     Mực, Gà Ác... đồng thanh:


  - Chúng thần cũng bị bọn chúng bôi nhọ hết từ đầu đến chân ạ ! Vậy xin bệ hạ ra chiếu xử lý ạ !
        Vua Quạ nói:
       - Vậy để ta ra chiếu cấm nói đến từ "đen" và các từ đồng nghĩa với nó. Nếu kẻ nào vi phạm sẽ khép vào tội  " Bôi nhọ triều đình" , bị xử cắt lưỡi và tống lao, các khanh có đồng ý không ?
       

           Các quan lớn đồng thanh hô to:
      - Hoàng thượng anh minh vạn vạn tuế !   


        Cả triều đình vua tôi đang hỉ hả về sáng kiến của mình thì bỗng có một tiếng nói từ trên cao vọng xuống:
    
Gà ác           - Ta là thượng đế đây, các ngươi đã nhìn lại mình chưa ? Với bộ lông vốn có như vậy, làm gì có kẻ nào bôi nhọ thêm được cho các ngươi nữa mà lo xử lí ? Thôi, ta chúc các ngươi sớm cải thiện được dung nhan của mình!





* Ghi chú: Ảnh các con vật sưu tầm trên internet.

Tuyên bố | ĐẠI SỨ QUÁN HỢP CHÚNG QUỐC HOA KỲ HÀ NỘI, VIỆT NAM

Tuyên bố | ĐẠI SỨ QUÁN HỢP CHÚNG QUỐC HOA KỲ HÀ NỘI, VIỆT NAM

Thứ Bảy, 22 tháng 9, 2012

Đảng, trước cuộc tắm rửa lần hai

Không chỉ trong đảng. Dân chúng, người ngoài đảng cũng nóng lòng, giật thót mình cùng những bản tin chính sự. Dù sao, sự quan tâm lo lắng, chờ mong và kỳ vọng của dân chúng vào cuộc tắm rửa của đảng là một dấu hiệu đáng mừng. Đến mức dân chúng im lặng bàng quan, kệ cho đảng và nhà nước lo mới là dấu hiệu khốn nguy.
Vì thế, nói như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: đợt này không làm đến nơi đến chốn, không thành công thì không còn cơ hội nào nữa để đảng lấy lại hình ảnh và niềm tin trước dân.
Bấm vào đường link sau để xem toàn bộ bài viết:
Trương Duy Nhất: Trước cuộc tắm rửa lần hai:

Thứ Sáu, 21 tháng 9, 2012

Nỗi sợ làm báo ở Việt Nam

Việt Nam bị cáo buộc gia tăng đàn áp giới phóng viên và blogger, theo báo cáo ra ngày 19/9 của Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ).
Tổ chức đặt trụ sở ở New York nói “với ít nhất 14 phóng viên đằng sau song sắt, Việt Nam là nước cầm tù báo chí tệ thứ hai châu Á, chỉ sau Trung Quốc”.
Tác giả báo cáo, Shawn W. Crispin, nói ông đã phỏng vấn 32 blogger, nhà báo, biên tập viên cả trong và ngoài Việt Nam.
Các cuộc phỏng vấn “cho thấy chính phủ ông [Nguyễn Tấn] Dũng đã gia tăng đàn áp”.
Tác giả cho biết văn phòng Thủ tướng Việt Nam “không hồi âm lá thư của CPJ xin đề nghị bình luận về bản báo cáo này”.
Giam cầm blogger
Báo cáo mở đầu bằng câu chuyện về blogger Nguyễn Văn Hải, được biết đến qua bút danh Điếu Cày, bị bắt hồi năm 2008. Ông Điếu Cày đã tham gia và tường thuật về các cuộc biểu tình chống Trung Quốc năm 2007.
Theo CPJ, con trai ông, Nguyễn Trí Dũng, kể công an Việt Nam nói rằng “nếu họ không kịp bắt bố tôi, nó sẽ làm Trung Quốc thất vọng và sẽ gây chiến, rồi đất nước sẽ còn mất lãnh thổ. Rõ ràng chuyện đó không đúng.”
Ông Điếu Cày đã bị xử 30 tháng tù giam vì ‘tội trốn thuế’ và đến ngày 19/10/2010 thì mãn hạn nhưng tiếp tục bị giam cho đến tận bây giờ.
Phiên tòa xử ba blogger, Điếu Cày, Phan Thanh Hải, Tạ Phong Tần đã ba lần đình hoãn và theo tin mới nhất, có thể diễn ra vào ngày 24/9.
Báo cáo của CPJ cho rằng sự kiểm soát truyền thông ở Việt Nam thuộc trong số “nghiêm ngặt và thô bạo nhất châu Á”.
Họ ghi nhận tất cả các ấn phẩm tin tức ở Việt Nam đều thuộc sở hữu và kiểm soát của chính phủ.
“Có chừng 80 tờ báo phát hành, trong đó hơn chục tờ có tầm cỡ toàn quốc...Các ấn phẩm thường có liên hệ với những tổ chức hoặc cơ quan gắn kết với Đảng Cộng sản, trong khi tin tức và bình luận thường bị bóp méo để phục vụ các phe phái, hoặc công kích các đối thủ trong đảng, đặc biệt trong thời gian sắp diễn ra Đại hội Đảng năm năm một lần.”
Mặc dù chính phủ không thừa nhận có danh sách “đen” những phóng viên đi chệch chỉ thị của đảng hay có quan hệ với giới bất đồng chính kiến, nhưng những phóng viên nói chuyện với CPJ lại khẳng định là có.
Một nữ phóng viên tin rằng cô bị cho vào danh sách hồi năm 2009 sau khi bị công an tạm giữ và thẩm vấn vì viết blog về tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc.
Cô nói kể từ đó, chính phủ thường xuyên từ chối các đề nghị phỏng vấn và cấm cô tham dự các hội nghị quốc tế.
‘Bốn điện thoại di động’
Theo một số người biên tập và phóng viên, các chủ đề bị cấm bao gồm hoạt động của bất đồng chính kiến, tham nhũng cấp cao, chia rẽ trong Đảng Cộng sản, các vấn đề nhân quyền, thái độ hoặc biểu tình chống Trung Quốc, chia rẽ hai miền Nam – Bắc, vân vân. Gần đây khi tăng trưởng kinh tế chậm lại, danh sách cấm lại bao gồm việc phê phán điều hành kinh tế của chính phủ, tranh chấp đất đai, và các hoạt động kinh doanh của con gái Thủ tướng.
CPJ dẫn lời một nhà báo của tờ Tuổi Trẻ ở TP. HCM cho hay Ban Tuyên giáo Trung ương mới đây gọi điện cho tòa soạn yêu cầu ngừng loạt bài đặt câu hỏi vì sao thuế thu nhập ở Việt Nam cao hơn những nước láng giềng. Tòa soạn buộc phải ngừng giữa chừng mặc dù đã chuẩn bị sẵn nhiều bài viết.
“Buổi sáng, anh bắt đầu làm câu chuyện, đến trưa, người ta bảo dừng lại,” phóng viên giấu tên này kể.
Các phóng viên nói với CPJ rằng chính quyền vẫn theo dõi sự đi lại, trò chuyện qua điện thoại và hoạt động trên mạng của họ.
Một nhà báo cho hay ông có tới bốn điện thoại di động, trong đó ba là đăng ký theo tên người khác, để tránh bị nghe lén, đặc biệt khi nói chuyện với sứ quán nước ngoài và giới đối kháng.
"Khi còn là nhà báo, có nhiều điều tôi muốn viết và đăng nhưng không được. [Là một blogger], tôi viết về những điều tôi thấy và bày tỏ ý kiến của mình."
Huỳnh Ngọc Chênh, nói với CPJ
Nhiều phóng viên báo nhà nước, nói chuyện với CPJ, cho biết họ đã từng duy trì blog cá nhân, để đăng những bài mà tòa soạn kiểm duyệt, hoặc phê phán cách tường thuật bị bóp méo của chính báo nhà. Nhưng khi chính quyền gia tăng theo dõi blog, nhiều người nói đã đóng blog vì sức ép chính quyền hoặc vì lo ngại bị đuổi việc.
Ông Huỳnh Ngọc Chênh, khi còn là Thư ký Tòa soạn báo Thanh Niên, cho biết ông bị buộc đóng blog vì sức ép chính quyền sau khi đăng nhiều chủ đề nhạy cảm, gồm cái mà ông gọi là “thất bại của hệ thống chính trị”.
Sau khi về hưu, ông Chênh mở lại blog và nay thường xuyên đăng các chủ đề không được báo chính thống đụng đến.
“Khi còn là nhà báo, có nhiều điều tôi muốn viết và đăng nhưng không được.”
“[Là một blogger], tôi viết về những điều tôi thấy và bày tỏ ý kiến của mình,” ông Chênh nói ông chưa bị quấy nhiễu vì viết blog và yêu cầu CPJ nêu rõ tên ông trong bản báo cáo.
‘Uống cà phê’
Các phóng viên nước ngoài thường trú ở Việt Nam đối diện những hạn chế kiểu khác. Công an theo dõi họ bằng những buổi “uống cà phê” với trợ lý người Việt của họ.
Trong một buổi cà phê, công an hỏi trợ lý của một tờ báo phương Tây là tại sao phóng viên tờ này gặp một nhà báo người Việt – cô này nói chuyện này chứng tỏ công an chìm theo dõi kỹ sự đi lại của phóng viên quốc tế.
Một trợ lý khác của một hãng tin quốc tế nói ông có thể biết cuộc điện đàm nào ở tòa soạn bị nghe lén thông qua các câu hỏi của an ninh khi “uống cà phê” hàng tuần.
Các phóng viên nước ngoài phải xin phép Bộ Ngoại giao khi muốn tường thuật bên ngoài thủ đô Hà Nội. Những người nói chuyện với CPJ than rằng đơn xin thường mất nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng, và khi nhận được giấy phép thì tin đã nguội mất.
Chính sách mâu thuẫn
Theo CPJ, mặc dù tồn tại những đe dọa công khai như thế, một số nhà quan sát nhìn thấy sự mâu thuẫn trong chính sách truyền thông.
Nhà nghiên cứu Geoffrey Cain nói tự do báo chí đã đi xuống từ năm 2006, sau khi hai phóng viên của Tuổi Trẻ và Thanh Niên điều tra và rồi bị tù giam vì vụ PMU-18.
Nhưng ông Cain tin rằng Đảng gần đây cho phép tự do hơn để tường thuật về tham nhũng cấp thấp, mà ông gọi là “kiểm duyệt nửa vời cố ý”, để kỷ luật giới chức và công an cấp tỉnh.
"Chúng tôi không biết làm sao bảo vệ mình. Nỗi sợ lớn ngăn không cho chúng tôi lên tiếng...Ngay cả lúc này, tôi không biết có bị nghe lén không."
Một phóng viên báo Pháp Luật
Các phóng viên trong nước tin rằng đấu đá nội bộ trong Đảng cũng khiến các quyết định về báo chí trở nên khó dứt khoát.
“Dường như ngày càng ít liên hệ giữa các chủ đề tường thuật, hàm biên tập và khả năng phóng viên gặp rắc rối. Đảng dùng sự bất an này để kiểm soát họ,” ông Cain nhận xét.
Dường như sự mâu thuẫn này cũng có trong việc kiểm duyệt mạng. Giống như các tờ báo lớn, ba nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) chính thuộc kiểm soát của các phe nhóm khác nhau trong Đảng Cộng sản. Các blogger cho hay mặc dù một số trang web bị một ISP chặn, nhưng lại truy cập được nếu dùng dịch vụ khác – có vẻ phản ánh mâu thuẫn nội bộ.
Một trợ lý của tờ báo phương Tây ghi nhận hồi tháng Sáu khi Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển, trang web Quốc hội bị một ISP trong nước chặn, nhưng có thể truy cập ở hai ISP khác.
Những tín hiệu mâu thuẫn này duy trì văn hóa sợ hãi trong giới phóng viên.
“Thật khó đoán vì ngay cả Đảng Cộng sản hình như cũng không biết họ đang làm gì,” một phóng viên báo Pháp Luật nói với CPJ tại Hà Nội.
“Chúng tôi không biết làm sao bảo vệ mình. Nỗi sợ lớn ngăn không cho chúng tôi lên tiếng...Ngay cả lúc này, tôi không biết có bị nghe lén không,” người này kể.

(Nguồn: BBC)

Thứ Năm, 20 tháng 9, 2012

Không thể hiểu nổi (4+16)!?

(Dân trí) - Trong khi ở trên, lãnh đạo cấp cao hai nước đang nói những lời hết sức tốt đẹp về tình hữu nghị thì ở dưới, Trung Quốc luôn tìm cách gây hấn với ta. Tại sao vậy? Thật là không thể hiểu nổi.
 >>  Trung Quốc xây mạng thông tin trái phép trên đảo Việt Nam
Không thể hiểu nổi!?

Từ nhiều năm nay, việc Trung Quốc gây hấn với ta trên biển Đông không còn là chuyện lạ. Thế nhưng có điều không thể hiểu nổi là như thành “qui luật”, mỗi lần lãnh đạo cao cấp của hai nước gặp nhau ở trên thì cũng là lúc ở dưới, họ lại tìm cách này hay cách khác gây ra tình hình căng thẳng. Khi thì họ bắt giữ trái phép tàu cá của ngư dân ta. Khi thì họ ngang nhiên cắt cáp tàu khoan dầu khí của ta. Khi thì họ thành lập cái này, xây dựng dự án nọ trên phần biển đảo thuộc chủ quyền của ta...
Chỉ gần đây thôi, khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hội kiến với Chủ tịch Hồ Cẩm Đào nhân dịp dự Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 20 thì cũng là lúc Cục Quản lý Thông tin tỉnh Hải Nam tiến hành xây dựng trái phép dự thảo "Quy hoạch các hạng mục xây dựng mạng thông tin thành phố Tam Sa". Một hảnh động vi phạm trắng trợn chủ quyền của Việt Nam. 
Trong khi đó tại cuộc hội kiến, cả hai vị Chủ tịch đều dành cho nhau những lời nói tốt đẹp, cùng khẳng định quan hệ hữu nghị truyền thống Việt - Trung được các thế hệ lãnh đạo tiền bối và nhân dân hai nước dày công vun đắp là tài sản quý báu của nhân dân hai nước và cả hai bên đều phải có trách nhiệm kế thừa, giữ gìn và phát huy.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang còn khẳng định không ngừng tăng cường và củng cố quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam - Trung Quốc là chủ trương nhất quán, lâu dài mang tầm chiến lược của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Tương tự, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào cũng khẳng định Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc hết sức coi trọng tình hữu nghị với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam và bày tỏ vui mừng trong những năm qua, với sự nỗ lực cùng thúc đẩy của cả hai bên, quan hệ giữa hai nước không ngừng tiến lên phía trước…
Ở cấp thấp hơn, trong cuộc Đối thoại chiến lược quốc phòng cấp thứ trưởng Việt -Trung lần thứ ba do Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam – Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đồng chủ trì với Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, Phó tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc cũng khẳng định tình đoàn kết giữa quân đội hai nước, không làm phức tạp thêm tình hình biển Đông.
Thế nhưng không hiểu tại sao Cục Quản lý Thông tin tỉnh Hải Nam lại tiến hành xây dựng cái gọi là dự thảo "Quy hoạch các hạng mục xây dựng mạng thông tin thành phố Tam Sa" này.
Câu hỏi đặt ra là vì sao lại có tình trạng rất nhiều lần Trung Quốc trên đang nói một đằng, dưới làm ngay một nẻo như vậy? Phải chăng là hành động hỗn loạn, “trên bảo dưới không nghe” của xã hội Trung Quốc hay ẩn chứa sau đó là những mưu đồ gì khác?
Người Trung Quốc vốn nổi tiếng mưu lược, thâm nho nên chỉ có họ mới biết. Có điều khả năng “trên bảo dưới không nghe” khó có khả năng xảy ra bởi chính quyền các địa phương của Trung Quốc luôn có sự hoạt động thống nhất chặt chẽ với chính quyền trung ương. Đặc biệt là trong các vấn đề liên quan đến biển Đông.
Người Trung Quốc, không thể hiểu nổi!
Bùi Hoàng Tám

Thứ Năm, 13 tháng 9, 2012

“Dân làm báo”, “Quan làm báo”,”Biển Đông”…đăng tải thông tin chống Đảng và Nhà nước

Điều tra, xử lý nghiêm việc đăng tải thông tin chống Đảng và Nhà nước


(Chinh phu.vn) – Ngày 12/9, Văn phòng Chính phủ đã có văn bản thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo các cơ quan chức năng điều tra, xử lý việc đăng tải thông tin có nội dung chống Đảng và Nhà nước.
Qua xem xét các báo cáo số: 277/BC-BCA-A61 ngày 15/6/2012, số 335/BC-BCA-A61 ngày 09/7/2012 của Bộ Công an; công văn số 78/BTTTT-PTTH&TTĐT ngày 29/6/2012 của Bộ Thông tin và Truyền thông; công văn số 2794-CV/BTGTW ngày 19/7/2012 của Ban Tuyên giáo Trung ương và báo cáo số 172-BC/VPTW ngày 07/9/2012 của Văn Phòng Trung ương Đảng về tình trạng một số trang thông tin điện tử như: “Dân làm báo”, “Quan làm báo”,”Biển Đông”… và một số trang mạng khác, đã đăng tải thông tin vu khống, bịa đặt, xuyên tạc, không đúng sự thật nhằm bôi đen bộ máy lãnh đạo của đất nước, kích động chống Đảng và Nhà nước ta, gây hoài nghi và tạo nên những dư luận xấu trong xã hội. Đây là thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công an chủ trì phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan chức năng tập trung chỉ đạo điều tra, xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo đúng quy định của pháp luật.
Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo các cơ quan cung cấp thông tin khách quan, đúng sự thật về tình hình các mặt của đất nước ta, nhất là các vấn đề mà dư luận quan tâm; chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan xử lý nghiêm việc thông tin, tuyên truyền không đúng sự thật. Khẩn trương trình Nghị định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng.
Báo Nhân Dân, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, các cơ quan thông tin đại chúng tăng cường cung cấp thông tin kịp thời, chính xác và chủ động phản bác các thông tin không đúng sự thật, xuyên tạc, chống Đảng và Nhà nước.
Các Bộ, ngành, các địa phương lãnh đạo cán bộ, công chức, viên chức không xem, không sử dụng, loan truyền và phổ biến các thông tin đăng tải trên các mạng phản động.

Thứ Sáu, 7 tháng 9, 2012

"Dân chủ đưa Đảng vào lòng dân tộc"

Hầu chuyện Trần Xuân Bách:
“Dân chủ đưa Đảng vào lòng dân tộc”
 
Tống Văn Công
 
Cuối tháng 9 năm 1989, tôi từ Sài Gòn ra, vừa đến trụ sở báo Lao Động (51 – Hàng Bồ, Hà Nội) thì cô Phạm Thị Châu, trưởng phòng hành chính đến gặp. (Cô Châu hiện nay là cán bộ báo Dân Trí.) Cô trao tấm danh thiếp của anh Trần Xuân Bách gửi cho tôi và háo hức kể: Xe đỗ trước cơ quan, bác ấy đi vào, nói “Tôi xin gặp anh Tống Văn Công”. Em trả lời: “Thưa bác, anh Công về Sài Gòn. Hiện đang có mặt hai phó tổng biên tập là anh Huy Đan và Phạm Văn Nhàn. Bác có thể gặp anh nào ạ?”.  Bác ấy mở cặp lấy cac vi dít đưa cho em, nói: “Khi nào anh Công ra, đồng chí đưa giùm tôi nhé, nói là tôi đang đợi anh ấy gọi”. Từ lâu tôi đã được ba người bạn có dịp gần gũi anh Trần Xuân Bách là nhà văn Nguyễn Khải gần anh khi còn làm báo quân khu 3 thời chống Pháp, dịch giả Lê Minh Đức gần anh ở Ban Dân vận TƯ và  Đinh Gia Bảy ủy viên Đảng đoàn, ủy viên Ban thư ký Tổng Liên đoàn Lao động VN từng làm việc dưới quyền của anh Bách lúc giúp bạn ở Campuchia, kể  nhiều chuyện về anh Bách, một người tài đức song toàn. Tôi cũng được đọc nhiều bài viết của anh, rất hâm mộ, nhưng chưa có dịp gặp, không ngờ tôi lại được anh tìm! Trước khi vào Sài Gòn, tôi đã dự hội nghị nghiên cứu Nghị quyết Trung ương lần thứ 7 (khóa 6), nên cảm nhận việc anh Trần Xuân Bách đến tìm là điều quan trọng.
Xin nhắc lại một số kết luận của Nghi Quyết TƯ 7:
Về tình hình thế giới:
“Công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới ở một số nước xã hội chủ nghĩa đã thu được những thành tựu nhất định, nhưng ở một số nước gặp khó khăn gay gắt, có nước chủ nghĩa xã hội đang đứng trước thách chức lớn. Lợi dụng tình hình khó khăn trên đây ở một số nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ mở cuộc phản kích quyết liệt vào chủ nghĩa xã hội, bằng những thủ đoạn rất xảo quyệt: Răn đe về quân sự; cổ vũ chủ nghĩa đa nguyên chính trị; dùng kinh tế khuyến khích việc cải cách theo hướng phát triển kinh tế tư nhân, thị trường tự do tư bản chủ nghĩa.”
“Trong nước…những khó khăn về kinh tế và xã hội đã và đang bắt đầu xuất hiện ở nước ta, trong đó đặc biệt nhấn mạnh: Các lực lượng bên ngoài đang tập trung đả kích, xuyên tạc Đảng ta không mạnh dạn cải cách chính trị, hạn chế dân chủ, hạn chế tự do báo chí, tự do sáng tác, phê bình”.
Trong bốn khuyết điểm dẫn đến tình hình trên, có: “Buông lỏng công tác tư tưởng, thiếu tinh thần chiến đấu chống những tư tưởng, quan điểm lệch lạc, những hành động và lời nói sai trái.”
Nghị quyết nhấn mạnh những nguyên tắc và chính sách: “Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị”…
Như vậy, anh Trần Xuân Bách đang là nhân vật có “vấn đề”!
Sau khi cô Châu rời khỏi phòng, tôi gọi điện thoại ngay cho anh Trần Xuân Bách. Giọng anh rất vui: “Bảy giờ tối, tôi đợi anh nhé!”. Tôi đáp: “Tôi muốn cùng anh Phạm Văn Nhàn phó tổng biên tâp đến thăm anh?” Anh Bách rất vui vẻ: “Ồ, càng nhiều anh em càng vui!”
Tôi không muốn một mình đến anh Bách vì đã có kinh nghiệm qua việc nhà văn Nguyên Ngọc gửi bài cho báo, tôi chưa đọc, nhưng cơ quan an ninh đã cử cán bộ đến yêu cầu được đọc trước! Tôi kể chuyện này với phó Tổng biên tập Phạm Văn Nhàn. (Hiện nay, anh Nhàn ở khu nhà tập thể báo Lao Động, quận Cầu Giấy.) Anh Nhàn nói: “Anh ấy bảo càng nhiều anh em càng vui, vậy ta rủ thêm Lưu Văn Hân, vì Hân quen thân với bên vợ anh Bách”. Tôi gọi điện rủ, anh Hân rất vui vẻ nhận lời. (Anh Lưu Văn Hân lúc ấy là vụ trưởng Vụ báo chí, Bộ Văn hóa – Thông tin, anh Trần Hoàn là Bộ trưởng.)
Ba chúng tôi đến biệt thự của anh Bách trên đường Phan Đình Phùng bằng chiếc u-oat cùa báo Lao Động do tài xế cựu chiến binh Nguyễn Văn Tiến lái. Có vài người mặc thường phục đứng trên vỉa hè dòm ngó. Tôi báo với người bảo vệ là chúng tôi được anh Bách hẹn. Anh bảo vệ gọi điện thoại vào nhà xin ý kiến. Tôi cứ tưởng anh Bách sẽ cho người giúp việc ra đón chúng tôi, không ngờ anh đích thân chạy ra cổng. Tôi nói, “Chúng tôi đến quá một người!” Anh Bách cười vui “Cám ơn các anh, tôi rất vui !” Anh đưa chúng tôi lên lầu. Chị Bách chờ sẵn, mời chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn kê sát tường. Chị pha cà phê, gọt táo và cùng ngồi với chồng tiếp khách. Thấy bên cạnh tấm lịch treo tường có kẹp bài thơ, ký Bách Xuân, tôi hỏi đùa: “Muốn xin anh bài thơ này đăng trang văn nghệ của báo?”. Anh nhìn chị, cười đáp: “Thơ mình chỉ dành riêng cho mộĩ bạn đọc này thôi.” Có lẽ, chị Bách nghĩ rằng mấy ông khách thấy chị quá trẻ so với anh, nên đã vui vẻ kể: “Hồi em mới lấy anh ấy, các bạn cứ trêu, sao lấy ông chồng quá đát vậy? Em trả lời, nhưng tâm hồn anh ấy rất trẻ!”. Sau mấy chuyện vui, tôi kể cho anh Bách nghe về lớp nghiên cứu Nghị quyết TƯ 7 của cán bộ cốt cán toàn quốc trước đây hơn một tuần. Anh Bách nghe rất chăm chú.
Lớp nghiên cứu này do ông Đào Duy Tùng Ủy viên Bộ chính trị phụ trách khối tư tưởng văn hóa thuyết trình. Ông nghe phản ánh ý kiến học viên ở các tổ thảo luận, tổng kết đợt học và giải đáp thắc mắc. Sau khi nghe ông Tùng giảng ở hội trường, Ban Tổ chức lớp học chia học viên theo ngành công tác vào các tổ thảo luận. Tôi dự thảo luận ở tổ báo chí, gồm các tổng biên tập, báo, chí, đài, nhà xuất bản ở Trung ương. (Có lẽ các tổ viên ngày ấy chỉ mỗi nhà thơ Hữu Thỉnh còn có mặt trong guồng máy hiện hành.) Tổ trưởng hướng dẫn thảo luận là anh Thái Ninh, phó trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương. (Đến Đại hội 7, anh Thái Ninh là Trưởng ban TTVH TƯ, anh Hữu Thọ là Phó trưởng ban thường trực). Khi thảo luận câu hỏi “Vì sao Đảng ta không chấp nhận đa nguyên chính trị?”, anh Bùi Tín, phó Tổng biên tập báo Nhân Dân xin phát biểu. Bùi Tín cho biết, anh rất lúng túng khi bị nhiều đồng chí đảng viên các đảng bạn ở phương Tây hỏi vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam lại không chấp nhận đa nguyên. Theo Bùi Tín, bản chất cuộc sống là đa nguyên, thực tế Việt Nam cũng đang có những yếu tố đa nguyên: Bên cạnh Đảng Cộng sản có Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội; Mặt trận Tổ quốc gồm có nhiều tổ chức Nông dân, Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ…Mỗi giới có tờ báo nói tiếng nói của mình. Phải đa nguyên mới thực sự dân chủ… Anh Bùi Tín nói hơn 30 phút. Cả tổ im lặng lắng nghe. Tổ trưởng Thái Ninh ghi ghi chép chép, không tỏ ra sốt ruột. Không ngờ hôm sau, khi tổng kết và trả lời thắc mắc, ông Đào Duy Tùng đã gay gắt phê phán: “Thật đáng chê trách, tại hội nghị này, gồm những cán bộ tuyên huấn cốt cán của Đảng, lại có một đồng chí nồng nhiệt cổ vũ đa nguyên chính trị! Đồng chí đó không biết rằng, đa nguyên là luận điệu mị dân của các chính trị gia tư sản ?  Bọn chúng gồm những tập đoàn tài phiệt, cần có đa nguyên để cạnh tranh với nhau. Giai cấp công nhân có sứ mệnh độc quyền lãnh đạo cách mạng, chỉ cần liên minh chiến lược với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức cách mạng. Chủ nghĩa xã hội thực hiện tập trung dân chủ, phải chống đa nguyên. Hôm nay đòi đa nguyên, rồi ngày mai sẽ đòi đa đảng, phải không?”
Anh Bách trầm ngâm, rồi nói: “Chúng ta đã thực hiện đa nguyên kinh tế, vậy phải thực hiện đa nguyên chinh trị, bước tới bằng hai chân mới cân bằng, không bị vấp váp”. Anh hỏi thêm về Bùi Tín, nhưng tôi chỉ gặp anh Bùi Tín hai lần mà cả hai lần đều cùng là khách được mời ăn cơm. Lần đầu tháng 5-1975, ở Sài Gòn anh Phước Sanh mời; lần thứ hai ở Hà Nội, nhà thơ Hải Như mời Bùi Tín, bác sĩ Vân B và tôi, chỉ ít lâu trước khi anh Bùi Tín đi họp báo Nhân Đạo và ở lại Pháp. Lúc ông Đào Duy Tùng chì chiết, tôi ngồi ở hàng ghế ngay sau lưng anh. Anh hai tay chống cằm, mớ tóc dài rũ xuống hai vai.
Hơn 10 giờ khuya, anh Bách tiễn chúng tôi ra tận cổng. Trước khi chia tay, tôi đề nghị: Bất cứ lúc nào, anh rảnh, tôi xin mời anh đến nơi tôi ở, số 14 Trần Bình Trọng, đối diện với Bộ công an. Tôi muốn được anh giải đáp cho một số câu hỏi. Và tôi gợi ý: Anh nên cho dừng xe ở Nguyễn Du, rồi đi bộ vào cổng, tôi sẽ đón bên trong. Kể ra cũng buồn cười, đón ông ủy viên Bộ chính trị mà phải lén lút như quan hệ với kẻ gian! Hồi đó, tôi vẫn nghĩ nơi ở của mình kín đáo lắm, nên đã từng tiếp đón nhiều bạn bè có lý lịch mà phía an ninh coi là không được trong sáng như Nguyễn Kiến Giang, Lê Đạt, Dương Tường, Phạm Thị Hoài…Mãi sau này, tôi mới biết là mọi việc xảy ra ở báo Lao Động đều có trong hồ sơ của cơ quan an ninh! Biết đâu chuyện tôi sắp kể ra đây cũng không phải là ngoại lệ!
Chỉ vài hôm sau, anh Bách hẹn đến, từ hôm đó tôi may mắn được hầu chuyện anh. Tôi đã đặt những câu hỏi với tư cách một nhà báo cách mạng mong muốn tìm thấy lộ trình đi tới tự do dân chủ cho dân tộc. Rất tiếc vì nhiều lý do, ý kiến tâm huyết của anh, một nhà cách mạng, một trí thức lớn nhất của Đảng Cộng sản VN mà tôi ghi chép nhiều buổi, đã không thể phổ biến đúng lúc. Lý do là vì nền “báo chí nói tiếng nói của Đảng” không cho phép, nhưng lý do chính mà tôi phải nhận là bởi sự hèn kém của mình. Trong phần hồi ức này, tôi xin ghi lại một số câu hỏi và giải đáp của anh không chỉ có ý nghĩa lịch sử, mà vẫn đang còn nguyên giá trị thời sự trong tình hình hiểm nghèo của đất nước trước họa ngoại xâm, và nội xâm, đang rất cần dân chủ hóa để tăng nội lực của dân tộc. Và đây cũng là món nợ ân tình đối với anh, nhiều năm nay lòng tôi luôn bứt rứt. 
HỎI: Tháng 6-1988, Nghị quyết TƯ 5 cho rằng khuyết điểm nghiêm trọng nhất trong công tác xây dựng Đảng là “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nghị quyết cho rằng “mở rộng dân chủ, đi đôi với tăng cường kỷ luật”, và phải “chống những mưu đồ lợi dụng dân chủ và công khai để chống lại sự nghiệp của Đảng và nhân dân”. Đến tháng 3-1989, Nghị quyết TƯ 6 nhắc lại phải “mở rộng dân chủ”, “dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật”. Tháng 8-1989, Nghị quyết TƯ 7 kết luận: “Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị”.
Những kết luận nói trên, cho thấy “dân chủ” như một khái niệm rất mơ hồ, có thể thu hẹp lại, hoặc mở rộng ra. Nhưng mở rộng ra thì phải kèm với “tập trung”, với “kỷ luật”, nếu không thì sẽ xảy ra tình trạng vô chính phủ, hoặc bị bọn phản động có “mưu đồ lợi dụng dân chủ, công khai, chống lại sự nghiệp của Đảng và nhân dân”?
ĐÁP: Dân chủ không hề có chỗ cho thứ tự do vô chính phủ nảy nở. Chế độ dân chủ thiết lập trên cơ sở một bản Hiến pháp được xây dựng từ ý chí tự do của nhân dân lựa chọn hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa . Hiến pháp quy định thể thức bảo đảm tổng tuyển cử tự do, không phân biệt khuynh hướng chính trị, quy định cách thức hoạt động của nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, bảo đảm các quyền tự do của con người và sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu Tuyên ngôn độc lập nước ta, đã nhắc lại Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, nói đến các quyền tự do của con người mà “Tạo hóa cho họ”. Dân chủ là thể chế hóa các quyền tự do ấy. Cho nên dân chủ là quyền lực của dân, với tư cách là con người tự do. Dân chủ không phải do lòng tốt của những người lãnh đạo muốn ban ơn cho dân, thấy thuận lợi thì mở rộng, thấy bất tiện thì thu hẹp .
Đại hội 6 kết luận “lấy dân làm gốc”. Dân chủ sẽ khơi động trí tuệ toàn dân tộc, “gốc” sẽ ngày càng vững mạnh, ngăn chặn quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm. Chế độ dân chủ không có chỗ cho những ai muốn lợi dụng, bè phái. Chỉ có chế độ độc đoán, quan liêu, khép kín mới là đất tốt cho những kẻ xấu lạm dụng quyền lực làm những điều phi pháp.
HỎI: Chế độ dân chủ như vừa miêu tả ở trên có trái với “nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” mà Nghị quyết TƯ 7 kêu gọi xây dựng và phát huy?
ĐÁP: Chúng ta đã chọn mô hình giáo điều, lai ghép chủ nghĩa xã hội Stalin với chủ nghĩa xã hội Mao Trạch Đông. Liên Xô và các nước Đông Âu đang lâm vào khủng hoảng bởi mô hình Stalin, vi phạm dân chủ, duy ý chí, quan liêu, đặc quyền, đặc lợi. Thế giới xã hội chủ nghĩa phải cải tổ, đổi mới, giải quyết những mâu thuẫn, phá vỡ cái cũ, đạt tới các tiêu chí của thời đại là: dân chủ, khoa học, nhân đạo, hiện đại. Xu thế chủ yếu là chuyển sang sở hữu tư nhân, kinh tế hàng hóa, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự.
Chúng ta đã đổi mới kinh tế, thực hiện sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường. Đã đến lúc phải đổi mới chính trị, dân chủ hóa xã hội, từng bước thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà Marx và Engels đã đề ra trong Tuyên ngôn Cộng sản: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Không đổi mới chính trị nhịp nhàng với đổi mới kinh tế thì đến một lúc nào đó sự phát triển kinh tế cũng sẽ bị chựng lại, bởi những rào cản quan liêu, tham nhũng, hạn chế sáng kiến. Đổi mới kinh tế là thực hiện đa nguyên kinh tế; kinh tế nhiều thành phần sẽ làm cho xã hội có sự phân tầng; mỗi giai tầng có quyền lợi, nguyện vọng khác nhau, từ đó nảy sinh đa nguyên chính trị. Đổi mới chính trị là từng bước chấp nhận đa nguyên chính trị song song với đa nguyên kinh tế, đúng như Marx, Engels: “Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội – cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra – cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”. (Lời tựa cho Tuyên ngôn của ĐCS bản tiếng Đức, 28-6-1883).
Từ một xã hội khép kín, một quốc gia đóng cửa, chúng ta khởi xướng đổi mới, mở cửa, làm bạn với tất cả các nước. Vậy thì trong nước cũng phải là một xã hội mở, chấp nhận tự do báo chí, tự do ngôn luận, nhiều tiếng nói có quan điểm khác biệt đối thoại, thương thảo, quyết định thuộc về đa số, nhưng thiểu số được tôn trọng và bảo vệ. Nhà nước bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người và quyền công dân theo Hiến pháp, không được ban hành luật lệ vi hiến để hạn chế các quyền ấy. Đảng lãnh đạo, cầm quyền, nhưng quyền lực thuộc về nhân dân. Do đó, Đảng phải nằm trong chứ không nằm ngoài và không được đứng trên xã hội. 
HỎI: Chúng ta có sợ đa nguyên chính trị sẽ làm suy yếu Đảng Cộng sản Việt Nam và cuối cùng làm mất quyền lãnh đạo? Bởi vì chấp nhận đa nguyên chính trị thì phải thực hiện các quyền tự do, trong đó có quyền lập hội, từ đó xuất hiện Đảng đối lập có cương lĩnh cạnh tranh với Đảng Cộng sản?
ĐÁP: Đó chính là sự ngộ nhận của những ai có thói quen độc quyền chân lý, theo chủ nghĩa giáo điều. Xu thế thời đại là tự do, dân chủ. Cách mạng khoa học kỹ thuật, bùng nổ thông tin, giao lưu quốc tế làm cho xu thế đó chuyển động rất nhanh chóng và có tính dây chuyền. Không ai có thể bưng bít thông tin, ngoảnh mặt trước đòi hỏi của nhân dân, ngăn chặn sự vận động tất yếu của cuộc sống. Bản chất của cuộc sống là đa nguyên. Đổi mới chính là thuận theo bản chất cuộc sống xã hội vốn mang tính đa nguyên cả về kinh tế, chính trị, văn hóa. Trên kia đã nói, Đảng nằm trong chứ không nằm ngoài và đứng trên xã hội, có nghĩa là thế nào? Đổi mới chính trị, trước hết Đảng phải tự đổi mới mình, phải trở thành Đảng dân tộc, kết tinh truyền thống dân tộc và trí tuệ thời đại. Đảng phải thực hiện dân chủ mạnh mẽ từ trên xuống dưới, từ Bộ chính trị trở đi.
Đảng không bao biện lấn sân làm thay nhà nước, không duy trì chế độ “đảng trị”, “toàn trị”. Nhà nước là công cụ của dân, chứ không phải là công cụ của Đảng, không phải cấp trên của dân. Nhà nước quản lý theo luật và bằng chính sách chứ không làm thay doanh nghiệp. Kế hoạch nhà nước nằm trong chứ không nằm ngoài và đứng trên thị trường. Ngược lại, nếu duy trì tình trạng như hiện nay thì không phải làm cho Đảng, cho Nhà nước vững mạnh mà là tạo môi trường xã hội dung dưỡng độc đoán, lạm quyền, tham nhũng làm thoái hóa Đảng và mục ruỗng Nhà nước.
Kinh tế thị trường đòi hỏi phải có Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Trong Hệ tư tưởng Đức, Marx và Engels cho rằng “Hình thức thương mại, bởi lực lượng sản xuất đang có quyết định ở một giai đoạn lịch sử và trở lại quyết định lực lượng sản xuất, đó là xã hội dân sự” và “Xã hội dân sự bao gồm toàn bộ thương mại vật chất của các cá nhân ở một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.” Hai ông cho rằng, xã hội dân sự tồn tại ở mọi thời đại với tư cách tổ chức xả hội trực tiếp bắt nguồn từ sản xuất và thương mại, đồng thời tạo thành nền tảng của nhà nước và mọi kiến trúc thượng tầng tinh thần khác. Các chế độ độc tài, phát xít Hitler, Mussolini thực hiện chế độ toàn trị, xóa bỏ xã hội dân sự đã bị thất bại. Mô hình xô viết Stalin cũng xóa bỏ xã hội dân sự là nguyên nhân đưa tới quan liêu hóa, khủng hoảng xã hội. Tình trạng đó chúng ta phải khắc phục. Nhiều năm qua các đoàn thể quần chúng đều bị chính trị hóa, hành chính hóa, không đại diện quyền lợi cho đoàn viên, hội viên, hạn chế sáng kiến của họ, quan trọng hơn là triệt tiêu sự góp ý thẳng thắn của họ đối với đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước. Thực hiện quyền tự do lập các hội, đoàn, các câu lạc bộ, hoạt động theo hướng ích nước lợi nhà, tương thân, tương ái, tự trang trải về tài chính, đó là chẳng những đáp ứng nguyện vọng chính đáng của quần chúng mà còn khôi phục xã hội dân sự, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, làm lành mạnh kinh tế thị trường.
Trong môi trường dân chủ, thượng tôn pháp luật, Đảng Cộng sản VN, cũng như mọi tổ chức và cá nhân có điều kiện để phát triển lành mạnh. Đảng Cộng sản VN có một quá trình lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, khởi xướng đổi mới, nay lại mạnh mẽ tự đổi mới mình để trở thành Đảng của dân tộc, không dùng quyền lực thay cho năng lực, trí tuệ. Dân chủ đưa Đảng vào lòng dân tộc. Liệu có Đảng đối lập nào đưa ra cương lĩnh trái với lợi ích dân tộc mà giành được lòng dân đối với Đảng Cộng sản? Chỉ có làm ngược lại, không chịu đổi mới chính trị, cố giữ thể chế độc quyền, trong khi xã hôị đã chuyển sang đa nguyên về kinh tế, đa nguyên thành phần xã hội, đa nguyên tư tưởng, văn hóa thì như vậy không khác nào đặt Đảng trong tình thế của một cây cổ thụ đứng đơn độc trước bão tố!
HỎI: Có nên duy trì cách chỉ đạo báo chí của Ban Tư tưởng -Văn Hóa TƯ Đảng như hiện nay? Thực dân Pháp đã từng chấp nhận quyền tự do báo chí đối với nhân dân nước Việt Nam thuộc địa. Chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có hai lần thực hiện tự do báo chí, lần đầu sau Cách mạng tháng Tám cho đến toàn quốc kháng chiến, lần thứ hai sau 30-4-1975 với báo tư nhân Tin Sáng cho đến tháng 6 năm 1981. Cả 2 lần ấy, báo chí tư nhân đều có những đóng góp rất tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Đổi mới chính trị, phải chăng đã đến lúc chuyển tự do báo chí từ quyền “tự do của tập thể” sang quyền “tự do của mỗi người” như Marx, Engels nói, như Nguyễn Ái Quốc đòi hỏi? Trong sách Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc viết: “Tôi gọi báo tức là một tờ báo về chính trị, về kinh tế hay văn học như chúng ta đã thấy ở châu Âu và các nước châu Á khác, chứ không phải một tờ báo do chính quyền lập ra”. Tại sao chúng ta không thực hiện ước nguyện của Hồ Chí Minh từ năm 1919 về quyền tự do báo chí trong bản yêu sách gửi Hội nghị Hòa bình Versailles?
ĐÁP: Ngày 24 tháng 9 năm 1982, Việt Nam đã ký kết gia nhập Công ước về các quyền dân sự và chính trị. Công ước này có quy định quyền tự do ngôn luận: Mọi người có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp; được tự do ngôn luận bao gồm tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến bằng các hình thức tuyên truyền miệng, viết ra, in, tự do sáng tạo các hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng…
Công ước đòi hỏi các quốc gia thành viên cam kết không hạn chế hoặc hủy bỏ những quyền tự do có tính phổ biến của nhân loại đã được quy định ở đây. Nhà nước ta sẽ phải sớm sửa đổi luật báo chí, luật lập hội, thực hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội như các quốc gia dân chủ trên thế giới.
Cuối năm 1989 anh Trần Xuân Bách có bài phát biểu “Chủ nghĩa xã hội thật sự là gì?”. Nội dung bài ấy tương tự những điều anh trả lời trên đây. Nhiều người cho rằng anh Trần Xuân Bách chưa bao giờ nói đến “đa đảng”. Thật ra chấp nhận đa nguyên chính trị tức là chấp nhận sự có mặt của các tầng lớp, các nhóm có lợi ích khác nhau, có quan điểm chính trị khác nhau, cùng tồn tại, hợp tác và đấu tranh. Chấp nhận đa nguyên chính trị tức là đã chấp nhận đa đảng sẽ diễn ra ngay sau đó.
Dịp Tết 1990, vài tháng trước khi bị kỷ luật ra khỏi Bộ chính trị và Ban chấp hành Trung ương Đảng, anh Trần Xuân Bách có sáng tác bài thơ sau đây. 
 BÀI THƠ KHAI BÚT 1990
 
Ngày xuân nhớ cụ Tú Xương,
Cố nhân chính trực, đồng hương nghĩa tình.
 
Lẳng lặng mà nghe tiếng nói dân.
Lấy dân làm gốc phải nghe dân.
Trí khôn thiên hạ không hề thiếu.
Chỉ sợ người ngu thích kẻ đần.
Nhà thơ Hải Như đề nghị thay chữ “mình” cho chữ “người” ở câu cuối. Anh Bách tiếp thu nhưng bảo, lấy làm tiếc vì đã phổ biến cho nhiều bạn bè.
Chiều thứ 5, ngày 22 tháng 3 năm 1990, anh Bách gọi điện bảo tôi, 7 giờ tối đến nhà anh, có chuyện rất cần biết. Cả ba anh em, Lưu Văn Hân, Phạm Văn Nhàn và tôi cùng đến. Trên lề đường trước nhà anh có nhiều người mặc thường phục đứng trên vỉa hè săm soi số xe. Anh Bách vẫn ra tận cổng đón chúng tôi. Chị Thịnh vẫn vui vẻ pha ca phê, gọt táo mời bạn bè. Anh Bách kể chuyện Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khai mạc từ ngày 12-3. Anh đã bị phê phán rất dữ dội. Anh cho rằng, mình chắc chắn sẽ bị đưa ra khỏi Bộ chính trị và Ban chấp hành Trung ương, thậm chí có ý kiến đòi khai trừ anh ra khỏi Đảng. Tôi tỏ ý băn khoăn, chẳng lẽ lại có thể xảy ra điều tồi tệ đến mức ấy, hoàn toàn trái với tinh thần đổi mới, nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật của Đại hội 6? Anh Bách kể:
Một đồng chí trong Bộ chính trị cho rằng, việc làm của đồng chí Trần Xuân Bách đã khiến cho đồng chí, bạn bè hết sức lo âu, còn kẻ thù thì vô cùng mừng rỡ”. Một người đã bị nhận xét tới mức đó thì làm sao có thể còn trong Bộ chính trị, Ban chấp hành TƯ?”. Anh Bách cho biết nhận xét đó không phải là ý kiến cá biệt, quan trọng hơn, đó là quan điểm của tổng bí thư Nguyễn văn Linh. Chỉ có hai ủy viên Bộ chính trị, Nguyễn Cơ Thạch và Võ văn Kiệt cho rằng, từ quan điểm “lấy dân làm gốc”, anh Bách muốn công cuộc đổi mới phải “đi hai chân” để đất nước phát triển và Đảng vững mạnh.
Hôm ấy, chia tay anh chị, chúng tôi buồn rười rượi, dù anh động viên: “Cho dù sắp tới sự nghiệp đổi mới có bị khó khăn hơn. Tuy nhiên, cái gì thuộc về quy luật, xu thế thì nó vẫn cứ đi tới, dù có chậm lại”.
Ngày 27-3-1990 Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa 6, thông qua Nghị quyết có những nội dung quan trọng như sau:
“Nghị quyết đã chỉ ra tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa đối với nước ta, trước hết là về các mặt chính trị, tư tưởng: Một số người hoài nghi chủ nghĩa xã hội, giảm lòng tin đối với Đảng và nhà nước; một số cán bộ, đảng viên tiếp nhận những tư tưởng, quan điểm sai lầm về cải tổ, cải cách của nước ngoài một cách máy móc, giáo điều; một số ít phần tử cơ hội bất mãn đang đẩy mạnh hoạt động chống lại sự lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa Đảng, đòi dân chủ không giới hạn…”
“Hội nghị nhận định: Đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch đang coi nước ta là một trọng điểm chống phá, ráo riết thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình bằng những thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và quân sự rất thâm độc. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa hai con đường chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa ta và địch trên phạm vi thế giới, ở nước ta và ba nước Đông Dương đang diễn ra gay gắt, quyết liệt và phức tạp”…
“Việc Bộ chính trị và Ban Bí thư tự phê bình và Trung ương góp ý kiến phê bình Bộ Chính trị, Ban Bí thư được tiến hành một cách nghiêm túc, dân chủ, thẳng thắn, chân thành và thân ái, với tinh thần trách nhiệm và xây dựng, đã góp phần tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Trung ương.”
“Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa 6 đã quyết định cách chức Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng đối với đồng chí Trần Xuân Bách vì đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và kỷ luật của Đảng, gây ra nhiều hậu quả xấu”.
Sau khi anh Bách bị cách chức, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin nhận anh về làm cán bộ nghiên cứu của Bộ Ngoại giao. Nhưng lúc này chính cái ghế của Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng đang lung lay. Cũng như Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch hiểu rất rõ nguyên nhân suy sụp của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là thiếu dân chủ, vi phạm nhân quyền, trái với xu thế thời đại. Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm, về đối nội phải dân chủ hóa xã hội, đối ngoại cần mau chóng quan hệ bình thường với Hoa Kỳ và thế giới dân chủ. Trong khi đó, Tổng bí thư Nguyễn văn Linh và nhiều người trong Bộ chính trị cho rằng phe xã hội chủ nghĩa suy sụp là do các thế lực thù địch đứng đầu là đế quốc Mỹ âm mưu phá hoại. Do đó, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng phải cầu hòa với Trung Quốc. Trung Quốc dù có tư tưởng bành trướng thì cũng vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa anh em. Để lấy lòng Bắc Kinh, Bộ chính trị đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh loại bỏ Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch một cách vô nguyên tắc, không cho tham gia đoàn cấp cao đi Thành Đô. Sau khi Nguyễn Cơ Thạch bị loại, anh Bách cũng xin nghỉ việc.
Anh Trần Xuân Bách bị kỷ luật ít lâu thì phó TBT báo Nhân Dân Bùi Tín nhân được cử đi dự họp báo Nhân Đạo, đã trả lời phỏng vấn đài BBC về dân chủ hóa, bị báo Nhân Dân thi hành kỷ luật, và xin tị nạn chính trị tại Pháp. Trong bài “Xa lộ thông tin chỉ còn lề phải” tôi có tỏ ý tiếc “Phải chi anh Bùi Tín tiếp tục nói ở trong nước, dù lời lẽ có nhẹ hơn đôi chút vẫn dễ được đồng bào lắng nghe”. Thời gian trước và sau đó, ở trong nước, có nhiều tác giả với lời lẽ chân thành, thẳng thắn với tư thế của người vừa là nạn nhân vừa là tội đồ, như Nguyễn Kiến Giang (Các tiểu luận: Khủng hoảng và lối ra, Từ duy tân đến đổi mới, Chủ nghĩa Mác – Lê nin còn lại những gì ; Tìm hiểu khái niệm công dân, vv…); Trần Độ với Nhật ký rồng rắn, Nguyễn Hộ với Quan điểm và Cuộc sống... Những bài viết ấy được đảng viên, cán bộ và nhân dân tìm đọc, làm cho những người lãnh đạo bảo thủ lúng túng.
Sau 20 năm nhìn lại, so sánh kết luận của Nghị quyết TƯ 8 (khóa 6) và ý kiến Trần Xuân Bách với thực tế đã diễn ra trên thế giới và trong nước, sẽ không khó đánh giá bên nào đúng bên nào sai.
Tình hình thế giới:
Do duy trì quá lâu mô hình xô viết cho đến ngày sụp đổ đã khiến cho nhân dân các nước Nga và Đông Âu cạn niềm tin đối với các Đảng Cộng sản và cánh tả. Ở Liên bang Nga, suốt 20 năm qua, Đảng cộng sản, tổng bí thư G. Zyuganov chỉ giành được tối đa khoảng 20% số phiếu trong các cuộc bầu cử. Trong khi đó, Đảng nhân dân Campuchia khi chấp nhận “cuộc chơi” đa đảng đã bị “lép vế”, nhưng nhờ giương cao ngọn cờ dân tộc, nay đã giành được thế thượng phong trên chính trường đất nước. Hiện nay, đợt sóng dân chủ lần thứ 4 đang cuộn cuộn, nước Miama gần sát Việt Nam đã chuyển từ quân phiệt sang dân chủ.
Sau 20 năm tái lập quan hệ đồng chí, trên cơ sở “16 chữ vàng” và “4 tốt” với Trung Quốc, ta càng ngày càng bị họ dồn ép: Thành lập thành phố Tam Sa bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa; mời thầu dầu khí ngay trên vùng đặc quyền kinh tế của ta; xua hằng vạn tàu cá, tàu vũ trang vào vùng biển Trường Sa; đòi “lấy máu người Việt Nam làm lễ tế cờ trong trận chiến Nam Sa“!…
Kỷ niệm 10 năm Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA), Chính phủ Việt Nam tuyên bố: “Việt Nam nhất quán chủ trương sẵn sàng cùng Hoa Kỳ nổ lực đưa quan hệ hai nước Việt – Mỹ lên tầm cao mới.” Ngày 2-8-2012 Thượng viện Hoa Kỳ thông qua Nghị quyết ủng hộ vai trò ASEAN trong vấn đề Biển Đông, ủng hộ Tuyên bố DOC năm 2002 giữa ASEAN- Trung Quốc. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực đóng góp vòng đàm phán thứ 13 Hiệp định Đối tác xuyên Thái bình dương (TPP).
Tình hình trong nước:
Nghị quyết TƯ 4 (khóa 11) nhận định “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”. Tham nhũng đã từ vài “con sâu” trở thành cả “bầy sâu”. Sự khiếu kiện đất đai dai dẳng bởi nạn cướp đất, đẩy nông dân tới bước phản ứng bằng bạo lực. Đội quân chủ lực của cách mạng giải phóng dân tộc đã nãy sinh cựu chiến binh Đoàn Văn Vươn làm bom tự tạo chống cưỡng chế phi pháp. Một trăm hộ dân Văn Giang đương đầu với 1000 cảnh sát vũ trang. Giai cấp công nhân được mệnh danh là giai cấp lãnh đạo, có đến 30% số người bị suy dinh dưỡng. Họ đã tổ chức hơn 5000 cuộc đình công đòi tiền lương, cải thiện bữa ăn, nhiều cuộc huy động từ 5000 đến 10.000 người, nhưng vẫn bị coi là bất hợp pháp, vì không được sự chỉ đạo của công đoàn! Trí thức bị cấm phản biện bằng Nghị định 97 của Thủ tướng. So sánh tư thế của nhà nước Việt Nam với nhà nước Philippines, Hàn Quốc, Nhật Bản…trong cuộc đấu tranh chống Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, người Việt Nam không khỏi hổ thẹn. Mỹ sẵn sàng giúp Philippines bảo vệ chủ quyền, trong khi đó đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện dân chủ, nhân quyền làm điều kiện “thế chấp”!
Nghĩ về vận nước, không khỏi chua xót nhớ Trần Xuân Bách! Nguyện vọng khoán hộ của Kim Ngọc tuy đã thành hiện thực, đưa Việt Nam vào hàng nước xuất khẩu lương thực lớn thứ hai thế giới. Tuy nhiên cho đến nay, người cày vẫn cánh cánh giấc mơ quyền sở hữu ruộng cày mà Qua Ninh và Vân Đình (bút hiệu của Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp tác giả quyển Vấn đề dân cày) đòi hỏi vẫn chưa được! Phải chăng tất cả đều còn phải chờ đến khi tư tưởng Trần Xuân Bách trở thành hiện thực trong cuộc sống dân tộc?
Ngày 20 -5 -2002 tại nhà anh Trần Xuân Bách ở Trung Tự (Hà Nội), nhà thơ Hải Như đã viết bài thơ tặng anh:
 
TRẦN XUÂN BÁCH
Chắc chắn lịch sử sau này sẽ dành một trang về anh,
                                                                            - khách quan phán xử
Tôi chỉ xin lưu ý nhỏ mai đời:
Cái Trần Xuân Bách mất rõ rồi, nhưng còn cái được,
                                                                           Tuyệt vời sao!
Chia sẻ tiếng sét giáng xuống đời anh,
Có một người đàn bà nguyện làm ngọn thu lôi vượt qua giông bão.
(Chúng ta từng sống một thời vô luân để  2 chữ “liên quan”
                                                                                       đè lên cơm áo).
Trần Xuân Bách. Anh là nạn nhân và cũng là tác giả tội ác.
                                                                                       Đúng không nào?
Trên chục năm dài lê thê con chim bằng gậm nhấm nỗi cô đơn.
Tâm hồn vẫn sáng trong không rũ buồn vì khép cánh.
Từ Sài gòn mỗi lần ra ghé thăm – tôi vui làm nhân chứng Một tình yêu…
Câu “Chúng ta từng sống một thời vô luân để hai chữ “liên quan” đè lên cơm áo” tôi cảm thấy như chỉ trích riêng mình! Sau khi anh Trần Xuân Bách bị kỷ luật, tôi còn tiếp tục làm tổng biên tập báo Lao Động 3 năm nữa, nhưng không đến thăm anh một lần nào! Tôi tự bào chữa: Vì thời gian này tôi phải liên tục đối phó với quá nhiều áp lực, chống đỡ cho tờ báo… Vì tôi đặt tòa soạn báo Lao Động ở Sài Gòn; gia đình, vợ con tôi cũng ở Sài Gòn, cho nên thời gian tôi có mặt ở Hà Nội rất eo hẹp…Nhưng mọi lý do vẫn không đủ để cho tôi có thể từ chối một chữ “hèn”! Anh Hải Như an ủi: “Mình biết, rất nhiều anh nhờ anh Bách mà leo lên “quyền cao chức trọng”, nhưng sau khi anh bị kỷ luật, suốt bao năm có anh nào dám đến thăm ông thày cũ của họ đâu! Cũng đừng trách họ hèn, bởi chúng ta phải sống “một thời vô luân” mà!”.
Ngày anh Bách qua đời (1-1-2006), nhà thơ Hải Như viết bài “Vĩnh biệt người bạn cùng quê”, có 3 câu này:
 “Tôi nhớ tới câu thơ hôm nào anh ghi tặng tôi:
 “Bác Hồ là chúng ta khi chúng ta thật sự là chúng ta.”
 “Ngày Anh đi xa, trên báo Nhân Dân, bạn đọc thấy những gì thuộc về anh đều được trả lại”.
Tôi muốn tuyên xưng “Bác Hồ là chúng ta” theo ý Trần Xuân Bách để tiếp tục đưa Dân chủ, Tự do tới đích. Nhưng tôi không đồng ý với nhận định “những gì thuộc về anh đều được trả lại”! Cho dù điếu văn có nhắc lại tất cả công lao Trần Xuân Bách, cho dù đã kể ra đủ các loại huân chương mà anh được trao tặng, cho dù cuối cùng, anh đã được nằm trong nghĩa trang Mai Dịch, nơi chỉ dành riêng cho các vị đại công thần của chế độ… nhưng tư tưởng cao cả mà Trần Xuân Bách hằng tâm nguyện và dám hiến mình, đâu đã được trả lại?!

Tống Văn Công
(Trích hồi ký Làm báo, để nhớ 23 năm trước được gặp Trần Xuân Bách)
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 6-9-12