Hầu chuyện Trần Xuân Bách:
“Dân chủ đưa Đảng vào lòng dân tộc”
Tống Văn Công
Cuối tháng 9 năm 1989, tôi từ Sài Gòn
ra, vừa đến trụ sở báo Lao Động (51 – Hàng Bồ, Hà Nội) thì cô Phạm
Thị Châu, trưởng phòng hành chính đến gặp. (Cô Châu hiện nay là cán
bộ báo Dân Trí.) Cô trao tấm danh thiếp của anh Trần Xuân Bách gửi
cho tôi và háo hức kể: Xe đỗ trước cơ quan, bác ấy đi vào, nói “Tôi
xin gặp anh Tống Văn Công”. Em trả lời: “Thưa bác, anh Công về Sài
Gòn. Hiện đang có mặt hai phó tổng biên tập là anh Huy Đan và Phạm
Văn Nhàn. Bác có thể gặp anh nào ạ?”. Bác ấy mở cặp lấy cac vi
dít đưa cho em, nói: “Khi nào anh Công ra, đồng chí đưa giùm tôi
nhé, nói là tôi đang đợi anh ấy gọi”. Từ lâu tôi đã được ba người
bạn có dịp gần gũi anh Trần Xuân Bách là nhà văn Nguyễn Khải gần anh
khi còn làm báo quân khu 3 thời chống Pháp, dịch giả Lê Minh Đức gần
anh ở Ban Dân vận TƯ và Đinh Gia Bảy ủy viên Đảng đoàn, ủy
viên Ban thư ký Tổng Liên đoàn Lao động VN từng làm việc dưới quyền
của anh Bách lúc giúp bạn ở Campuchia, kể nhiều chuyện về anh Bách,
một người tài đức song toàn. Tôi cũng được đọc nhiều bài viết của
anh, rất hâm mộ, nhưng chưa có dịp gặp, không ngờ tôi lại được anh
tìm! Trước khi vào Sài Gòn, tôi đã dự hội nghị nghiên cứu Nghị quyết
Trung ương lần thứ 7 (khóa 6), nên cảm nhận việc anh Trần Xuân Bách
đến tìm là điều quan trọng.
Xin nhắc lại một số kết luận của Nghi
Quyết TƯ 7:
Về tình hình thế giới:
“Công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới ở
một số nước xã hội chủ nghĩa đã thu được những thành tựu nhất định,
nhưng ở một số nước gặp khó khăn gay gắt, có nước chủ nghĩa xã hội
đang đứng trước thách chức lớn. Lợi dụng tình hình khó khăn trên đây
ở một số nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ mở
cuộc phản kích quyết liệt vào chủ nghĩa xã hội, bằng những thủ đoạn
rất xảo quyệt: Răn đe về quân sự; cổ vũ chủ nghĩa đa nguyên chính
trị; dùng kinh tế khuyến khích việc cải cách theo hướng phát triển
kinh tế tư nhân, thị trường tự do tư bản chủ nghĩa.”
“Trong nước…những khó khăn về kinh tế
và xã hội đã và đang bắt đầu xuất hiện ở nước ta, trong đó đặc biệt
nhấn mạnh: Các lực lượng bên ngoài đang tập trung đả kích, xuyên tạc
Đảng ta không mạnh dạn cải cách chính trị, hạn chế dân chủ, hạn chế
tự do báo chí, tự do sáng tác, phê bình”.
Trong bốn khuyết điểm dẫn đến tình hình
trên, có: “Buông lỏng công tác tư tưởng, thiếu tinh thần chiến đấu
chống những tư tưởng, quan điểm lệch lạc, những hành động và lời nói
sai trái.”
Nghị quyết nhấn mạnh những nguyên tắc
và chính sách: “Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,
không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị”…
Như vậy, anh Trần Xuân Bách đang là
nhân vật có “vấn đề”!
Sau khi cô Châu rời khỏi phòng, tôi gọi
điện thoại ngay cho anh Trần Xuân Bách. Giọng anh rất vui: “Bảy giờ
tối, tôi đợi anh nhé!”. Tôi đáp: “Tôi muốn cùng anh Phạm Văn Nhàn
phó tổng biên tâp đến thăm anh?” Anh Bách rất vui vẻ: “Ồ, càng nhiều
anh em càng vui!”
Tôi không muốn một mình đến anh Bách vì
đã có kinh nghiệm qua việc nhà văn Nguyên Ngọc gửi bài cho báo, tôi
chưa đọc, nhưng cơ quan an ninh đã cử cán bộ đến yêu cầu được đọc
trước! Tôi kể chuyện này với phó Tổng biên tập Phạm Văn Nhàn. (Hiện
nay, anh Nhàn ở khu nhà tập thể báo Lao Động, quận Cầu Giấy.) Anh
Nhàn nói: “Anh ấy bảo càng nhiều anh em càng vui, vậy ta rủ thêm Lưu
Văn Hân, vì Hân quen thân với bên vợ anh Bách”. Tôi gọi điện rủ, anh
Hân rất vui vẻ nhận lời. (Anh Lưu Văn Hân lúc ấy là vụ trưởng Vụ báo
chí, Bộ Văn hóa – Thông tin, anh Trần Hoàn là Bộ trưởng.)
Ba chúng tôi đến biệt thự của anh Bách
trên đường Phan Đình Phùng bằng chiếc u-oat cùa báo Lao Động do tài
xế cựu chiến binh Nguyễn Văn Tiến lái. Có vài người mặc thường phục
đứng trên vỉa hè dòm ngó. Tôi báo với người bảo vệ là chúng tôi được
anh Bách hẹn. Anh bảo vệ gọi điện thoại vào nhà xin ý kiến. Tôi cứ
tưởng anh Bách sẽ cho người giúp việc ra đón chúng tôi, không ngờ
anh đích thân chạy ra cổng. Tôi nói, “Chúng tôi đến quá một người!”
Anh Bách cười vui “Cám ơn các anh, tôi rất vui !” Anh đưa chúng tôi
lên lầu. Chị Bách chờ sẵn, mời chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn kê sát
tường. Chị pha cà phê, gọt táo và cùng ngồi với chồng tiếp khách.
Thấy bên cạnh tấm lịch treo tường có kẹp bài thơ, ký Bách Xuân, tôi
hỏi đùa: “Muốn xin anh bài thơ này đăng trang văn nghệ của báo?”.
Anh nhìn chị, cười đáp: “Thơ mình chỉ dành riêng cho mộĩ bạn đọc này
thôi.” Có lẽ, chị Bách nghĩ rằng mấy ông khách thấy chị quá trẻ so
với anh, nên đã vui vẻ kể: “Hồi em mới lấy anh ấy, các bạn cứ trêu,
sao lấy ông chồng quá đát vậy? Em trả lời, nhưng tâm hồn anh ấy rất
trẻ!”. Sau mấy chuyện vui, tôi kể cho anh Bách nghe về lớp nghiên
cứu Nghị quyết TƯ 7 của cán bộ cốt cán toàn quốc trước đây hơn một
tuần. Anh Bách nghe rất chăm chú.
Lớp nghiên cứu này do ông Đào Duy Tùng
Ủy viên Bộ chính trị phụ trách khối tư tưởng văn hóa thuyết trình.
Ông nghe phản ánh ý kiến học viên ở các tổ thảo luận, tổng kết đợt
học và giải đáp thắc mắc. Sau khi nghe ông Tùng giảng ở hội trường,
Ban Tổ chức lớp học chia học viên theo ngành công tác vào các tổ
thảo luận. Tôi dự thảo luận ở tổ báo chí, gồm các tổng biên tập,
báo, chí, đài, nhà xuất bản ở Trung ương. (Có lẽ các tổ viên ngày ấy
chỉ mỗi nhà thơ Hữu Thỉnh còn có mặt trong guồng máy hiện hành.) Tổ
trưởng hướng dẫn thảo luận là anh Thái Ninh, phó trưởng ban Tư tưởng
– Văn hóa Trung ương. (Đến Đại hội 7, anh Thái Ninh là Trưởng ban
TTVH TƯ, anh Hữu Thọ là Phó trưởng ban thường trực). Khi thảo luận
câu hỏi “Vì sao Đảng ta không chấp nhận đa nguyên chính trị?”, anh
Bùi Tín, phó Tổng biên tập báo Nhân Dân xin phát biểu. Bùi Tín cho
biết, anh rất lúng túng khi bị nhiều đồng chí đảng viên các đảng bạn
ở phương Tây hỏi vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam lại không chấp nhận
đa nguyên. Theo Bùi Tín, bản chất cuộc sống là đa nguyên, thực tế
Việt Nam cũng đang có những yếu tố đa nguyên: Bên cạnh Đảng Cộng sản
có Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội; Mặt trận Tổ quốc gồm có nhiều tổ chức
Nông dân, Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ…Mỗi giới có tờ báo nói tiếng
nói của mình. Phải đa nguyên mới thực sự dân chủ… Anh Bùi Tín nói
hơn 30 phút. Cả tổ im lặng lắng nghe. Tổ trưởng Thái Ninh ghi ghi
chép chép, không tỏ ra sốt ruột. Không ngờ hôm sau, khi tổng kết và
trả lời thắc mắc, ông Đào Duy Tùng đã gay gắt phê phán: “Thật đáng
chê trách, tại hội nghị này, gồm những cán bộ tuyên huấn cốt cán của
Đảng, lại có một đồng chí nồng nhiệt cổ vũ đa nguyên chính trị! Đồng
chí đó không biết rằng, đa nguyên là luận điệu mị dân của các chính
trị gia tư sản ? Bọn chúng gồm những tập đoàn tài phiệt, cần có đa
nguyên để cạnh tranh với nhau. Giai cấp công nhân có sứ mệnh độc
quyền lãnh đạo cách mạng, chỉ cần liên minh chiến lược với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức cách mạng. Chủ nghĩa xã hội thực hiện
tập trung dân chủ, phải chống đa nguyên. Hôm nay đòi đa nguyên, rồi
ngày mai sẽ đòi đa đảng, phải không?”
Anh Bách trầm ngâm, rồi nói: “Chúng ta
đã thực hiện đa nguyên kinh tế, vậy phải thực hiện đa nguyên chinh
trị, bước tới bằng hai chân mới cân bằng, không bị vấp váp”. Anh hỏi
thêm về Bùi Tín, nhưng tôi chỉ gặp anh Bùi Tín hai lần mà cả hai lần
đều cùng là khách được mời ăn cơm. Lần đầu tháng 5-1975, ở Sài Gòn
anh Phước Sanh mời; lần thứ hai ở Hà Nội, nhà thơ Hải Như mời Bùi
Tín, bác sĩ Vân B và tôi, chỉ ít lâu trước khi anh Bùi Tín đi họp
báo Nhân Đạo và ở lại Pháp. Lúc ông Đào Duy
Tùng chì chiết, tôi ngồi ở hàng ghế ngay sau lưng anh. Anh hai tay
chống cằm, mớ tóc dài rũ xuống hai vai.
Hơn 10 giờ khuya, anh Bách tiễn chúng tôi
ra tận cổng. Trước khi chia tay, tôi đề nghị: Bất cứ lúc nào, anh
rảnh, tôi xin mời anh đến nơi tôi ở, số 14 Trần Bình Trọng, đối diện
với Bộ công an. Tôi muốn được anh giải đáp cho một số câu hỏi. Và
tôi gợi ý: Anh nên cho dừng xe ở Nguyễn Du, rồi đi bộ vào cổng, tôi
sẽ đón bên trong. Kể ra cũng buồn cười, đón ông ủy viên Bộ chính trị
mà phải lén lút như quan hệ với kẻ gian! Hồi đó, tôi vẫn nghĩ nơi ở
của mình kín đáo lắm, nên đã từng tiếp đón nhiều bạn bè có lý lịch
mà phía an ninh coi là không được trong sáng như Nguyễn Kiến Giang,
Lê Đạt, Dương Tường, Phạm Thị Hoài…Mãi sau này, tôi mới biết là mọi
việc xảy ra ở báo Lao Động đều có trong hồ sơ của cơ quan an ninh!
Biết đâu chuyện tôi sắp kể ra đây cũng không phải là ngoại lệ!
Chỉ vài hôm sau, anh Bách hẹn đến, từ
hôm đó tôi may mắn được hầu chuyện anh. Tôi đã đặt những câu hỏi với
tư cách một nhà báo cách mạng mong muốn tìm thấy lộ trình đi tới tự
do dân chủ cho dân tộc. Rất tiếc vì nhiều lý do, ý kiến tâm huyết
của anh, một nhà cách mạng, một trí thức lớn nhất của Đảng Cộng sản
VN mà tôi ghi chép nhiều buổi, đã không thể phổ biến đúng lúc. Lý do
là vì nền “báo chí nói tiếng nói của Đảng” không cho phép, nhưng lý
do chính mà tôi phải nhận là bởi sự hèn kém của mình. Trong phần hồi
ức này, tôi xin ghi lại một số câu hỏi và giải đáp của anh không chỉ
có ý nghĩa lịch sử, mà vẫn đang còn nguyên giá trị thời sự trong
tình hình hiểm nghèo của đất nước trước họa ngoại xâm, và nội xâm,
đang rất cần dân chủ hóa để tăng nội lực của dân tộc. Và đây cũng là
món nợ ân tình đối với anh, nhiều năm nay lòng tôi luôn bứt rứt.
HỎI: Tháng 6-1988, Nghị quyết TƯ
5 cho rằng khuyết điểm nghiêm trọng nhất trong công tác xây dựng
Đảng là “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nghị quyết cho rằng
“mở rộng dân chủ, đi đôi với tăng cường kỷ luật”, và phải “chống
những mưu đồ lợi dụng dân chủ và công khai để chống lại sự nghiệp
của Đảng và nhân dân”. Đến tháng 3-1989, Nghị quyết TƯ 6 nhắc lại
phải “mở rộng dân chủ”, “dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ
luật”. Tháng 8-1989, Nghị quyết TƯ 7 kết luận: “Xây dựng và phát huy
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị, không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên
chính trị”.
Những kết luận nói trên, cho thấy “dân
chủ” như một khái niệm rất mơ hồ, có thể thu hẹp lại, hoặc mở rộng
ra. Nhưng mở rộng ra thì phải kèm với “tập trung”, với “kỷ luật”,
nếu không thì sẽ xảy ra tình trạng vô chính phủ, hoặc bị bọn phản
động có “mưu đồ lợi dụng dân chủ, công khai, chống lại sự nghiệp của
Đảng và nhân dân”?
ĐÁP: Dân chủ không hề có chỗ cho
thứ tự do vô chính phủ nảy nở. Chế độ dân chủ thiết lập trên cơ sở
một bản Hiến pháp được xây dựng từ ý chí tự do của nhân dân lựa chọn
hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa . Hiến pháp quy định
thể thức bảo đảm tổng tuyển cử tự do, không phân biệt khuynh hướng
chính trị, quy định cách thức hoạt động của nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân, bảo đảm các quyền tự do của con người và sự
bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh mở
đầu Tuyên ngôn độc lập nước ta, đã nhắc lại Tuyên ngôn độc lập Hoa
Kỳ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, nói đến các quyền
tự do của con người mà “Tạo hóa cho họ”. Dân chủ là thể chế hóa các
quyền tự do ấy. Cho nên dân chủ là quyền lực của dân, với tư cách là
con người tự do. Dân chủ không phải do lòng tốt của những người lãnh
đạo muốn ban ơn cho dân, thấy thuận lợi thì mở rộng, thấy bất tiện
thì thu hẹp .
Đại hội 6 kết luận “lấy dân làm gốc”.
Dân chủ sẽ khơi động trí tuệ toàn dân tộc, “gốc” sẽ ngày càng vững
mạnh, ngăn chặn quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm. Chế độ dân
chủ không có chỗ cho những ai muốn lợi dụng, bè phái. Chỉ có chế độ
độc đoán, quan liêu, khép kín mới là đất tốt cho những kẻ xấu lạm
dụng quyền lực làm những điều phi pháp.
HỎI: Chế độ dân chủ như vừa miêu
tả ở trên có trái với “nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” mà Nghị quyết
TƯ 7 kêu gọi xây dựng và phát huy?
ĐÁP: Chúng ta đã chọn mô hình
giáo điều, lai ghép chủ nghĩa xã hội Stalin với chủ nghĩa xã hội Mao
Trạch Đông. Liên Xô và các nước Đông Âu đang lâm vào khủng hoảng bởi
mô hình Stalin, vi phạm dân chủ, duy ý chí, quan liêu, đặc quyền,
đặc lợi. Thế giới xã hội chủ nghĩa phải cải tổ, đổi mới, giải quyết
những mâu thuẫn, phá vỡ cái cũ, đạt tới các tiêu chí của thời đại
là: dân chủ, khoa học, nhân đạo, hiện đại. Xu thế chủ yếu là chuyển
sang sở hữu tư nhân, kinh tế hàng hóa, nhà nước pháp quyền, xã hội
dân sự.
Chúng ta đã đổi mới kinh tế, thực hiện
sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường. Đã đến lúc phải đổi mới chính
trị, dân chủ hóa xã hội, từng bước thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội mà Marx và Engels đã đề ra trong Tuyên ngôn Cộng sản: “Sự
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người”.
Không đổi mới chính trị nhịp nhàng với
đổi mới kinh tế thì đến một lúc nào đó sự phát triển kinh tế cũng sẽ
bị chựng lại, bởi những rào cản quan liêu, tham nhũng, hạn chế sáng
kiến. Đổi mới kinh tế là thực hiện đa nguyên kinh tế; kinh tế nhiều
thành phần sẽ làm cho xã hội có sự phân tầng; mỗi giai tầng có quyền
lợi, nguyện vọng khác nhau, từ đó nảy sinh đa nguyên chính trị. Đổi
mới chính trị là từng bước chấp nhận đa nguyên chính trị song song
với đa nguyên kinh tế, đúng như Marx, Engels: “Trong mỗi thời đại
lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội – cơ cấu này tất yếu phải
do sản xuất kinh tế mà ra – cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch
sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”. (Lời tựa cho
Tuyên ngôn của ĐCS bản tiếng Đức, 28-6-1883).
Từ một xã hội khép kín, một quốc gia
đóng cửa, chúng ta khởi xướng đổi mới, mở cửa, làm bạn với tất cả
các nước. Vậy thì trong nước cũng phải là một xã hội mở, chấp nhận
tự do báo chí, tự do ngôn luận, nhiều tiếng nói có quan điểm khác
biệt đối thoại, thương thảo, quyết định thuộc về đa số, nhưng thiểu
số được tôn trọng và bảo vệ. Nhà nước bảo đảm thực hiện đầy đủ các
quyền con người và quyền công dân theo Hiến pháp, không được ban
hành luật lệ vi hiến để hạn chế các quyền ấy. Đảng lãnh đạo, cầm
quyền, nhưng quyền lực thuộc về nhân dân. Do đó, Đảng phải nằm trong
chứ không nằm ngoài và không được đứng trên xã hội.
HỎI: Chúng ta có sợ đa nguyên
chính trị sẽ làm suy yếu Đảng Cộng sản Việt Nam và cuối cùng làm mất
quyền lãnh đạo? Bởi vì chấp nhận đa nguyên chính trị thì phải thực
hiện các quyền tự do, trong đó có quyền lập hội, từ đó xuất hiện
Đảng đối lập có cương lĩnh cạnh tranh với Đảng Cộng sản?
ĐÁP: Đó chính là sự ngộ nhận của
những ai có thói quen độc quyền chân lý, theo chủ nghĩa giáo điều.
Xu thế thời đại là tự do, dân chủ. Cách mạng khoa học kỹ thuật, bùng
nổ thông tin, giao lưu quốc tế làm cho xu thế đó chuyển động rất
nhanh chóng và có tính dây chuyền. Không ai có thể bưng bít thông
tin, ngoảnh mặt trước đòi hỏi của nhân dân, ngăn chặn sự vận động
tất yếu của cuộc sống. Bản chất của cuộc sống là đa nguyên. Đổi mới
chính là thuận theo bản chất cuộc sống xã hội vốn mang tính đa
nguyên cả về kinh tế, chính trị, văn hóa. Trên kia đã nói, Đảng nằm
trong chứ không nằm ngoài và đứng trên xã hội, có nghĩa là thế nào?
Đổi mới chính trị, trước hết Đảng phải tự đổi mới mình, phải trở
thành Đảng dân tộc, kết tinh truyền thống dân tộc và trí tuệ thời
đại. Đảng phải thực hiện dân chủ mạnh mẽ từ trên xuống dưới, từ Bộ
chính trị trở đi.
Đảng không bao biện lấn sân làm thay
nhà nước, không duy trì chế độ “đảng trị”, “toàn trị”. Nhà nước là
công cụ của dân, chứ không phải là công cụ của Đảng, không phải cấp
trên của dân. Nhà nước quản lý theo luật và bằng chính sách chứ
không làm thay doanh nghiệp. Kế hoạch nhà nước nằm trong chứ không
nằm ngoài và đứng trên thị trường. Ngược lại, nếu duy trì tình trạng
như hiện nay thì không phải làm cho Đảng, cho Nhà nước vững mạnh mà
là tạo môi trường xã hội dung dưỡng độc đoán, lạm quyền, tham nhũng
làm thoái hóa Đảng và mục ruỗng Nhà nước.
Kinh tế thị trường đòi hỏi phải có Nhà
nước pháp quyền và xã hội dân sự. Trong Hệ tư tưởng Đức, Marx và
Engels cho rằng “Hình thức thương mại, bởi lực lượng sản xuất đang
có quyết định ở một giai đoạn lịch sử và trở lại quyết định lực
lượng sản xuất, đó là xã hội dân sự” và “Xã hội dân sự bao gồm toàn
bộ thương mại vật chất của các cá nhân ở một giai đoạn phát triển
nhất định của lực lượng sản xuất.” Hai ông cho rằng, xã hội dân sự
tồn tại ở mọi thời đại với tư cách tổ chức xả hội trực tiếp bắt
nguồn từ sản xuất và thương mại, đồng thời tạo thành nền tảng của
nhà nước và mọi kiến trúc thượng tầng tinh thần khác. Các chế độ độc
tài, phát xít Hitler, Mussolini thực hiện chế độ toàn trị, xóa bỏ xã
hội dân sự đã bị thất bại. Mô hình xô viết Stalin cũng xóa bỏ xã hội
dân sự là nguyên nhân đưa tới quan liêu hóa, khủng hoảng xã hội.
Tình trạng đó chúng ta phải khắc phục. Nhiều năm qua các đoàn thể
quần chúng đều bị chính trị hóa, hành chính hóa, không đại diện
quyền lợi cho đoàn viên, hội viên, hạn chế sáng kiến của họ, quan
trọng hơn là triệt tiêu sự góp ý thẳng thắn của họ đối với đường lối
của Đảng, chính sách của nhà nước. Thực hiện quyền tự do lập các
hội, đoàn, các câu lạc bộ, hoạt động theo hướng ích nước lợi nhà,
tương thân, tương ái, tự trang trải về tài chính, đó là chẳng những
đáp ứng nguyện vọng chính đáng của quần chúng mà còn khôi phục xã
hội dân sự, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, làm lành mạnh
kinh tế thị trường.
Trong môi trường dân chủ, thượng
tôn pháp luật, Đảng Cộng sản VN, cũng như mọi tổ chức và cá nhân có
điều kiện để phát triển lành mạnh. Đảng Cộng sản VN có một quá
trình lịch sử lãnh
đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, khởi xướng đổi mới, nay lại
mạnh mẽ tự đổi mới mình để trở thành Đảng của dân tộc, không dùng
quyền lực thay cho năng lực, trí tuệ. Dân chủ đưa Đảng vào lòng dân
tộc. Liệu có Đảng đối lập nào đưa ra cương lĩnh trái với lợi ích dân
tộc mà giành được lòng dân đối với Đảng Cộng sản? Chỉ có làm ngược
lại, không chịu đổi mới chính trị, cố giữ thể chế độc quyền, trong
khi xã hôị đã chuyển sang đa nguyên về kinh tế, đa nguyên thành phần
xã hội, đa nguyên tư tưởng, văn hóa thì như vậy không khác nào đặt
Đảng trong tình thế của một cây cổ thụ đứng đơn độc trước bão tố!
HỎI: Có nên duy trì cách chỉ đạo
báo chí của Ban Tư tưởng -Văn Hóa TƯ Đảng như hiện nay? Thực dân
Pháp đã từng chấp nhận quyền tự do báo chí đối với nhân dân nước
Việt Nam thuộc địa. Chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có hai lần thực
hiện tự do báo chí, lần đầu sau Cách mạng tháng Tám cho đến toàn
quốc kháng chiến, lần thứ hai sau 30-4-1975 với báo tư nhân Tin Sáng
cho đến tháng 6 năm 1981. Cả 2 lần ấy, báo chí tư nhân đều có những
đóng góp rất tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Đổi
mới chính trị, phải chăng đã đến lúc chuyển tự do báo chí từ quyền
“tự do của tập thể” sang quyền “tự do của mỗi người” như Marx,
Engels nói, như Nguyễn Ái Quốc đòi hỏi? Trong sách Đây công lý
của thực dân Pháp ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc viết: “Tôi gọi
báo tức là một tờ báo về chính trị, về kinh tế hay văn học như chúng
ta đã thấy ở châu Âu và các nước châu Á khác, chứ không phải một tờ
báo do chính quyền lập ra”. Tại sao chúng ta không thực hiện ước
nguyện của Hồ Chí Minh từ năm 1919 về quyền tự do báo chí trong bản
yêu sách gửi Hội nghị Hòa bình Versailles?
ĐÁP:
Ngày 24 tháng 9 năm 1982, Việt Nam đã ký kết gia nhập Công ước về
các quyền dân sự và chính trị. Công ước này có quy định quyền tự do
ngôn luận: Mọi người có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai
can thiệp; được tự do ngôn luận bao gồm tìm kiếm, nhận và truyền đạt
mọi loại tin tức, ý kiến bằng các hình thức tuyên truyền miệng, viết
ra, in, tự do sáng tạo các hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng…
Công ước đòi
hỏi các quốc gia thành viên cam kết không hạn chế hoặc hủy bỏ những
quyền tự do có tính phổ biến của nhân loại đã được quy định ở đây.
Nhà nước ta sẽ phải sớm sửa đổi luật báo chí, luật lập hội, thực
hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội như các quốc gia
dân chủ trên thế giới.
Cuối năm 1989 anh Trần Xuân Bách có bài
phát biểu “Chủ nghĩa xã hội thật sự là gì?”. Nội dung bài ấy tương
tự những điều anh trả lời trên đây. Nhiều người cho rằng anh Trần
Xuân Bách chưa bao giờ nói đến “đa đảng”. Thật ra chấp nhận đa
nguyên chính trị tức là chấp nhận sự có mặt của các tầng lớp, các
nhóm có lợi ích khác nhau, có quan điểm chính trị khác nhau, cùng
tồn tại, hợp tác và đấu tranh. Chấp nhận đa nguyên chính trị tức là
đã chấp nhận đa đảng sẽ diễn ra ngay sau đó.
Dịp Tết 1990, vài tháng trước khi bị kỷ
luật ra khỏi Bộ chính trị và Ban chấp hành Trung ương Đảng, anh Trần
Xuân Bách có sáng tác bài thơ sau đây.
BÀI THƠ KHAI BÚT 1990
Ngày xuân nhớ cụ Tú Xương,
Cố nhân chính trực, đồng hương nghĩa tình.
Lẳng lặng mà nghe tiếng nói dân.
Lấy dân làm gốc phải nghe dân.
Trí khôn thiên hạ không hề thiếu.
Chỉ sợ người ngu thích kẻ đần.
Nhà thơ Hải Như đề nghị thay chữ “mình”
cho chữ “người” ở câu cuối. Anh Bách tiếp thu nhưng bảo, lấy làm
tiếc vì đã phổ biến cho nhiều bạn bè.
Chiều thứ 5, ngày 22 tháng 3 năm 1990,
anh Bách gọi điện bảo tôi, 7 giờ tối đến nhà anh, có chuyện rất cần
biết. Cả ba anh em, Lưu Văn Hân, Phạm Văn Nhàn và tôi cùng đến. Trên
lề đường trước nhà anh có nhiều người mặc thường phục đứng trên vỉa
hè săm soi số xe. Anh Bách vẫn ra tận cổng đón chúng tôi. Chị Thịnh
vẫn vui vẻ pha ca phê, gọt táo mời bạn bè. Anh Bách kể chuyện Hội
nghị Trung ương lần thứ 8 khai mạc từ ngày 12-3. Anh đã bị phê phán
rất dữ dội. Anh cho rằng, mình chắc chắn sẽ bị đưa ra khỏi Bộ chính
trị và Ban chấp hành Trung ương, thậm chí có ý kiến đòi khai trừ anh
ra khỏi Đảng. Tôi tỏ ý băn khoăn, chẳng lẽ lại có thể xảy ra điều
tồi tệ đến mức ấy, hoàn toàn trái với tinh thần đổi mới, nhìn thẳng
vào sự thật, nói đúng sự thật của Đại hội 6? Anh Bách kể:
“Một
đồng chí trong Bộ chính trị cho rằng, việc làm của đồng chí Trần
Xuân Bách đã khiến cho đồng chí, bạn bè hết sức lo âu, còn kẻ thù
thì vô cùng mừng rỡ”. Một người đã bị nhận xét tới mức đó thì làm
sao có thể còn trong Bộ chính trị, Ban chấp hành TƯ?”. Anh Bách cho
biết nhận xét đó không phải là ý kiến cá biệt, quan trọng hơn, đó là
quan điểm của tổng bí thư Nguyễn văn Linh. Chỉ có hai ủy viên Bộ
chính trị, Nguyễn Cơ Thạch và Võ văn Kiệt cho rằng, từ quan điểm
“lấy dân làm gốc”, anh Bách muốn công cuộc đổi mới phải “đi hai
chân” để đất nước phát triển và Đảng vững mạnh.
Hôm ấy, chia tay anh chị, chúng tôi
buồn rười rượi, dù anh động viên: “Cho dù sắp tới sự nghiệp đổi mới
có bị khó khăn hơn. Tuy nhiên, cái gì thuộc về quy luật, xu thế thì
nó vẫn cứ đi tới, dù có chậm lại”.
Ngày 27-3-1990 Hội nghị Trung ương lần
thứ 8, khóa 6, thông qua Nghị quyết có những nội dung quan trọng như
sau:
“Nghị quyết đã chỉ ra tác động tiêu cực
của cuộc khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa đối với nước ta,
trước hết là về các mặt chính trị, tư tưởng: Một số người hoài nghi
chủ nghĩa xã hội, giảm lòng tin đối với Đảng và nhà nước; một số cán
bộ, đảng viên tiếp nhận những tư tưởng, quan điểm sai lầm về cải tổ,
cải cách của nước ngoài một cách máy móc, giáo điều; một số ít phần
tử cơ hội bất mãn đang đẩy mạnh hoạt động chống lại sự lãnh đạo của
Đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa Đảng, đòi dân chủ không giới hạn…”
“Hội nghị nhận định: Đế quốc Mỹ và các
thế lực thù địch đang coi nước ta là một trọng điểm chống phá, ráo
riết thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình bằng những thủ đoạn kinh
tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và quân sự rất thâm độc. Cuộc đấu
tranh giai cấp giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa hai con đường
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa ta và địch trên phạm vi
thế giới, ở nước ta và ba nước Đông Dương đang diễn ra gay gắt,
quyết liệt và phức tạp”…
“Việc Bộ chính trị và Ban Bí thư tự phê
bình và Trung ương góp ý kiến phê bình Bộ Chính trị, Ban Bí thư được
tiến hành một cách nghiêm túc, dân chủ, thẳng thắn, chân thành và
thân ái, với tinh thần trách nhiệm và xây dựng, đã góp phần tăng
cường sự đoàn kết nhất trí trong Trung ương.”
“Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung
ương khóa 6 đã quyết định cách chức Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư
Trung ương, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng đối với đồng chí
Trần Xuân Bách vì đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và kỷ
luật của Đảng, gây ra nhiều hậu quả xấu”.
Sau khi anh Bách bị cách chức, Bộ
trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin nhận anh về làm cán bộ nghiên cứu của Bộ
Ngoại giao. Nhưng lúc này chính cái ghế của Bộ trưởng ngoại giao
Nguyễn Cơ Thạch cũng đang lung lay. Cũng như Trần Xuân Bách, Nguyễn
Cơ Thạch hiểu rất rõ nguyên nhân suy sụp của chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu là thiếu dân chủ, vi phạm nhân quyền, trái với xu thế
thời đại. Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm, về đối nội phải dân chủ hóa
xã hội, đối ngoại cần mau chóng quan hệ bình thường với Hoa Kỳ và
thế giới dân chủ. Trong khi đó, Tổng bí thư Nguyễn văn Linh và nhiều
người trong Bộ chính trị cho rằng phe xã hội chủ nghĩa suy sụp là do
các thế lực thù địch đứng đầu là đế quốc Mỹ âm mưu phá hoại. Do đó,
để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng phải cầu hòa với
Trung Quốc. Trung Quốc dù có tư tưởng bành trướng thì cũng vẫn là
một nước xã hội chủ nghĩa anh em. Để lấy lòng Bắc Kinh, Bộ chính trị
đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh loại bỏ Bộ trưởng ngoại giao
Nguyễn Cơ Thạch một cách vô nguyên tắc, không cho tham gia đoàn cấp
cao đi Thành Đô. Sau khi Nguyễn Cơ Thạch bị loại, anh Bách cũng xin
nghỉ việc.
Anh Trần Xuân Bách bị kỷ luật ít lâu
thì phó TBT báo Nhân Dân Bùi Tín nhân được cử đi dự họp báo Nhân
Đạo, đã trả lời phỏng vấn đài BBC về dân chủ hóa, bị báo Nhân Dân
thi hành kỷ luật, và xin tị nạn chính trị tại Pháp. Trong bài “Xa
lộ thông tin chỉ còn lề phải” tôi có tỏ ý tiếc “Phải chi anh Bùi
Tín tiếp tục nói ở trong nước, dù lời lẽ có nhẹ hơn đôi chút vẫn dễ
được đồng bào lắng nghe”. Thời gian trước và sau đó, ở trong nước,
có nhiều tác giả với lời lẽ chân thành, thẳng thắn với tư thế của
người vừa là nạn nhân vừa là tội đồ, như Nguyễn Kiến Giang (Các tiểu
luận: Khủng hoảng và lối ra, Từ duy tân đến đổi mới, Chủ nghĩa Mác –
Lê nin còn lại những gì ; Tìm hiểu khái niệm công dân, vv…); Trần Độ
với Nhật ký rồng rắn, Nguyễn Hộ với Quan điểm và Cuộc sống... Những
bài viết ấy được đảng viên, cán bộ và nhân dân tìm đọc, làm cho
những người lãnh đạo bảo thủ lúng túng.
Sau 20 năm nhìn lại, so sánh kết luận
của Nghị quyết TƯ 8 (khóa 6) và ý kiến Trần Xuân Bách với thực tế đã
diễn ra trên thế giới và trong nước, sẽ không khó đánh giá bên nào
đúng bên nào sai.
Tình hình thế giới:
Do duy trì quá lâu mô hình xô viết cho
đến ngày sụp đổ đã khiến cho nhân dân các nước Nga và Đông Âu cạn
niềm tin đối với các Đảng Cộng sản và cánh tả. Ở Liên bang Nga, suốt
20 năm qua, Đảng cộng sản, tổng bí thư G. Zyuganov chỉ giành được
tối đa khoảng 20% số phiếu trong các cuộc bầu cử. Trong khi đó, Đảng
nhân dân Campuchia khi chấp nhận “cuộc chơi” đa đảng đã bị “lép vế”,
nhưng nhờ giương cao ngọn cờ dân tộc, nay đã giành được thế thượng
phong trên chính trường đất nước. Hiện nay, đợt sóng dân chủ lần thứ
4 đang cuộn cuộn, nước Miama gần sát Việt Nam đã chuyển từ quân
phiệt sang dân chủ.
Sau 20 năm tái lập quan hệ đồng chí,
trên cơ sở “16 chữ vàng” và “4 tốt” với Trung Quốc, ta càng ngày
càng bị họ dồn ép: Thành lập thành phố Tam Sa bao gồm Hoàng Sa,
Trường Sa; mời thầu dầu khí ngay trên vùng đặc quyền kinh tế của ta;
xua hằng vạn tàu cá, tàu vũ trang vào vùng biển Trường Sa; đòi “lấy
máu người Việt Nam làm lễ tế cờ trong trận chiến Nam Sa“!…
Kỷ niệm 10 năm Hiệp định Thương mại
song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA), Chính phủ Việt Nam tuyên bố:
“Việt Nam nhất quán chủ trương sẵn sàng cùng Hoa Kỳ nổ lực đưa quan
hệ hai nước Việt – Mỹ lên tầm cao mới.” Ngày 2-8-2012 Thượng viện
Hoa Kỳ thông qua Nghị quyết ủng hộ vai trò ASEAN trong vấn đề Biển
Đông, ủng hộ Tuyên bố DOC năm 2002 giữa ASEAN- Trung Quốc. Hiện nay,
Việt Nam đang tích cực đóng góp vòng đàm phán thứ 13 Hiệp định Đối
tác xuyên Thái bình dương (TPP).
Tình hình trong nước:
Nghị quyết TƯ 4 (khóa 11) nhận định
“Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp”. Tham nhũng đã từ vài “con sâu” trở thành cả “bầy
sâu”. Sự khiếu kiện đất đai dai dẳng bởi nạn cướp đất, đẩy nông dân
tới bước phản ứng bằng bạo lực. Đội quân chủ lực của cách mạng giải
phóng dân tộc đã nãy sinh cựu chiến binh Đoàn Văn Vươn làm bom tự
tạo chống cưỡng chế phi pháp. Một trăm hộ dân Văn Giang đương đầu
với 1000 cảnh sát vũ trang. Giai cấp công nhân được mệnh danh là
giai cấp lãnh đạo, có đến 30% số người bị suy dinh dưỡng. Họ đã tổ
chức hơn 5000 cuộc đình công đòi tiền lương, cải thiện bữa ăn, nhiều
cuộc huy động từ 5000 đến 10.000 người, nhưng vẫn bị coi là bất hợp
pháp, vì không được sự chỉ đạo của công đoàn! Trí thức bị cấm phản
biện bằng Nghị định 97 của Thủ tướng. So sánh tư thế của nhà nước
Việt Nam với nhà nước Philippines, Hàn Quốc, Nhật Bản…trong cuộc đấu
tranh chống Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, người Việt Nam không khỏi
hổ thẹn. Mỹ sẵn sàng giúp Philippines bảo vệ chủ quyền, trong khi đó
đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện dân chủ, nhân quyền làm điều kiện
“thế chấp”!
Nghĩ về vận nước, không khỏi chua xót
nhớ Trần Xuân Bách! Nguyện vọng khoán hộ của Kim Ngọc tuy đã thành
hiện thực, đưa Việt Nam vào hàng nước xuất khẩu lương thực lớn thứ
hai thế giới. Tuy nhiên cho đến nay, người cày vẫn cánh cánh giấc mơ
quyền sở hữu ruộng cày mà Qua Ninh và Vân Đình (bút hiệu của Trường
Chinh và Võ Nguyên Giáp tác giả quyển Vấn đề dân cày) đòi hỏi
vẫn chưa được! Phải chăng tất cả đều còn phải chờ đến khi tư tưởng
Trần Xuân Bách trở thành hiện thực trong cuộc sống dân tộc?
Ngày 20 -5
-2002 tại nhà anh Trần Xuân Bách ở Trung Tự (Hà Nội), nhà thơ Hải
Như đã viết bài thơ tặng anh:
TRẦN XUÂN BÁCH
Chắc
chắn lịch sử sau này sẽ dành một trang về anh,
- khách quan phán xử
Tôi
chỉ xin lưu ý nhỏ mai đời:
Cái
Trần Xuân Bách mất rõ rồi, nhưng còn cái được,
Tuyệt vời sao!
Chia
sẻ tiếng sét giáng xuống đời anh,
Có
một người đàn bà nguyện làm ngọn thu lôi vượt qua giông bão.
(Chúng ta từng sống một thời vô luân để 2 chữ “liên quan”
đè lên cơm áo).
Trần
Xuân Bách. Anh là nạn nhân và cũng là tác giả tội ác.
Đúng không nào?
Trên
chục năm dài lê thê con chim bằng gậm nhấm nỗi cô đơn.
Tâm
hồn vẫn sáng trong không rũ buồn vì khép cánh.
Từ
Sài gòn mỗi lần ra ghé thăm – tôi vui làm nhân chứng Một
tình yêu…
Câu “Chúng ta từng sống một thời vô
luân để hai chữ “liên quan” đè lên cơm áo” tôi cảm thấy như chỉ
trích riêng mình! Sau khi anh Trần Xuân Bách bị kỷ luật, tôi còn
tiếp tục làm tổng biên tập báo Lao Động 3 năm nữa, nhưng không đến
thăm anh một lần nào! Tôi tự bào chữa: Vì thời gian này tôi phải
liên tục đối phó với quá nhiều áp lực, chống đỡ cho tờ báo… Vì tôi
đặt tòa soạn báo Lao Động ở Sài Gòn; gia đình, vợ con tôi cũng ở Sài
Gòn, cho nên thời gian tôi có mặt ở Hà Nội rất eo hẹp…Nhưng mọi lý
do vẫn không đủ để cho tôi có thể từ chối một chữ “hèn”! Anh Hải Như
an ủi: “Mình biết, rất nhiều anh nhờ anh Bách mà leo lên “quyền cao
chức trọng”, nhưng sau khi anh bị kỷ luật, suốt bao năm có anh nào
dám đến thăm ông thày cũ của họ đâu! Cũng đừng trách họ hèn, bởi
chúng ta phải sống “một thời vô luân” mà!”.
Ngày anh Bách qua đời (1-1-2006), nhà
thơ Hải Như viết bài “Vĩnh biệt người bạn cùng quê”, có 3 câu này:
“Tôi
nhớ tới câu thơ hôm nào anh ghi tặng tôi:
“Bác
Hồ là chúng ta khi chúng ta thật sự là chúng ta.”
“Ngày Anh đi xa, trên báo Nhân Dân, bạn đọc thấy những gì
thuộc về anh đều được trả lại”.
Tôi muốn tuyên xưng “Bác Hồ là chúng
ta” theo ý Trần Xuân Bách để tiếp tục đưa Dân chủ, Tự do tới đích.
Nhưng tôi không đồng ý với nhận định “những gì thuộc về anh đều được
trả lại”! Cho dù điếu văn có nhắc lại tất cả công lao Trần Xuân
Bách, cho dù đã kể ra đủ các loại huân chương mà anh được trao tặng,
cho dù cuối cùng, anh đã được nằm trong nghĩa trang Mai Dịch, nơi
chỉ dành riêng cho các vị đại công thần của chế độ… nhưng tư tưởng
cao cả mà Trần Xuân Bách hằng tâm nguyện và dám hiến mình, đâu đã
được trả lại?!
Tống Văn Công
(Trích hồi ký Làm báo, để nhớ
23 năm trước được gặp Trần Xuân Bách)
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 6-9-12