SGTT.VN - Trong tháng 9.2012, viện CODE (thuộc liên
hiệp Các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam) đã mời đoàn chuyên gia khai
khoáng đi thị sát tình hình thi công và chuẩn bị vận hành của hai dự án
alumin tại Lâm Đồng và Dăk Nông.
TS Nguyễn Thành Sơn. Ảnh: Chí Hiếu
|
Chuyến đi kết thúc, phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị đã có
cuộc phỏng vấn TS Nguyễn Thành Sơn, thành viên của đoàn, giám đốc ban
quản lý các dự án than đồng bằng sông Hồng thuộc tập đoàn Công nghiệp
than – khoáng sản Việt Nam (Vinacomin).
Những con số đáng báo động
Thưa ông, những gì nhìn thấy ở hai dự án Tân Rai,
Nhân Cơ mới đây có gì khác với những điều ông hình dung trước kia về
chương trình alumin không?
Những điều quan trọng nhất thì chẳng có gì “khác” cả.
“Bùn đỏ” – vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm, vẫn được thải bằng
công nghệ “ướt” rẻ tiền và nhiều rủi ro. Hồ bùn đỏ ban đầu cũng đã chiếm
quá nhiều diện tích thuộc loại “bờ xôi, ruộng mật”. Công nghệ Trung
Quốc lạc hậu thì ngày càng rõ (phân xưởng khí hoá than sử dụng công nghệ
của những năm 60 (thế kỷ 20 – PV) và phải dùng than cục tốt của Hòn Gai
loại 4A). Nhà thầu Trung Quốc dây dưa, dự án chậm tiến độ cũng chẳng có
gì là mới. Tổng mức đầu tư đã tăng lên (vốn “thử nghiệm” hai dự án đã
gần 1,5 tỉ đôla Mỹ) cũng chẳng làm ai ngạc nhiên.
Qua chuyến khảo sát, ông thấy điều gì đã cản trở tiến độ dự án?
Nhà thầu nước ngoài chưa chịu bàn giao phần việc của
mình chỉ là lý do chậm tiến độ. Khâu “tắc” nhất của dự án Tân Rai bây
giờ là phần việc mà chủ đầu tư đảm trách – khâu tuyển bôxít sau khi khai
thác, trước khi đưa vào luyện thành alumin. Việc đơn giản, dễ làm nhất
là thiết kế dây chuyền tuyển bôxít. Công việc này được ưu tiên chỉ định
cho “nội lực” là viện Khoa học công nghệ mỏ của Vinacomin triển khai.
Bãi thải quặng đuôi – một hạng mục lẽ ra chẳng có gì đáng bàn, nhưng
được các “nhà khoa học” của viện Khoa học công nghệ mỏ thiết kế còn rủi
ro hơn bãi thải bùn đỏ của nhà thầu Trung Quốc. Nước thải đầu ra của
xưởng tuyển được thải trực tiếp vào nguồn nước đầu vào (đầu ra của bể
“phốt” chính là bể nước ăn), v.v. Tổng đầu tư cho xưởng tuyển bôxít này
khoảng 300 tỉ đồng, việc xây lắp đã hoàn tất từ lâu, nhưng tư vấn thiết
kế vẫn đang tiếp tục “nghiên cứu thí nghiệm” để “hiệu chỉnh thiết kế” ở
Hà Nội… Vinacomin cần làm rõ trách nhiệm nội bộ trước khi đổ lỗi cho
người ngoài.
Tại thời điểm này, bài toán kinh tế về tổng thể của
các dự án alumin Việt Nam có thể nhẩm tính ra kết quả lỗ lãi thế nào,
thưa ông ?
Dự án Nhân Cơ chưa xong, chưa có cơ sở để tính toán. Dự
án Tân Rai đã gần như hoàn tất, nhưng chậm tiến độ gần hai năm, có thể
“nhẩm” được bài toán đơn giản nhất như thế này: chậm tiến độ một năm,
riêng lãi suất huy động vốn trong quá trình xây dựng (IDC) đã làm tăng
tổng mức đầu tư thêm gần 1.100 tỉ đồng.
Khi đi vào hoạt động, giả sử trường hợp lý tưởng: tổng
vốn đầu tư đã được điều chỉnh của Tân Rai chỉ dừng lại ở mức 15.600 tỉ
đồng, lãi suất huy động vốn tạm tính 7%/năm, thời gian huy động vốn là
mười năm, trả vào cuối kỳ, riêng chi phí hoàn trả vốn đầu tư (cả gốc và
lãi) đã lên tới 2.220 tỉ đồng/năm.
Nếu đạt 100% công suất thiết kế (0,6 triệu tấn/năm),
mỗi năm nhà máy sẽ phải tiêu dùng khoảng: 1,2 triệu tấn bôxít qua tuyển
(khai thác tại chỗ); 0,4 triệu tấn than cám (giá FOB tại Quảng Ninh
khoảng 1,6 triệu đồng/tấn); 0,2 triệu tấn than cục (giá FOB tại Quảng
Ninh khoảng 4 triệu đồng/tấn); khoảng 0,1 triệu tấn hoá chất và đá vôi
(vận chuyển ngược từ xa tới), v.v. Nếu tính “vo”, tổng chi phí vận hành
khoảng 2.500 tỉ đồng/năm. Như vậy, giá thành alumin xuất xưởng tại Tân
Rai thấp nhất cũng khoảng 375 USD/tấn.
Tôi đã tham khảo giá nhôm trên thế giới và có nhận
định: nếu giá nhôm kim loại trên thế giới năm 2013 sẽ đạt mức 2.300
USD/tấn, thì giá xuất khẩu alumin của Vinacomin ở ven biển tối đa khoảng
345 USD/tấn. Như vậy, nếu tính chi phí tiêu thụ (vận chuyển, bốc – dỡ,
hao hụt) khoảng 25 USD/tấn và thuế xuất khẩu theo quy định là 20%, thì
mỗi tấn alumin sẽ lỗ khoảng 124 USD, Vinacomin lỗ 74,4 triệu USD/năm.
Trong trường hợp “thuận buồm xuôi gió” nhất (được miễn cả thuế xuất khẩu
– và ngân sách tạm thời chưa nộp ngân sách), mỗi tấn alumin sẽ lỗ ít
nhất 55 USD, và mỗi năm Vinacomin lỗ ít nhất 33 triệu USD.
Tây Nguyên, “vốn để dành”
Theo ông, quyết tâm làm alumin theo cách hiện nay sẽ dẫn đến những hệ quả gì đối với Tây Nguyên và cả nước?
Đối với Tây Nguyên và cả nước, còn cần phải tính đến
vấn đề sinh thái. Hậu quả về sinh thái nguy hiểm hơn nhiều, nhưng bây
giờ chưa thể hiện. Còn đối với Vinacomin, nếu cứ quyết tâm làm thử
nghiệm đến cùng thì bôxít sẽ gặp phải những thiệt hại kinh tế. Khoảng
99,36% lợi nhuận thu được để Vinacomin đầu tư vào các dự án kinh doanh
đa ngành (trong đó có các dự án bôxít – alumin) có nguồn gốc từ ngành
than. Nếu ngành than bị mất vốn đã đầu tư vào bôxít, và trong tương lai
vẫn phải tiếp tục “gánh” lỗ cho bôxít (74,4 triệu USD/năm như phân tích ở
trên), thì bôxít còn ảnh hưởng lan toả đối với cả nền kinh tế.
Cảm tưởng của ông sau chuyến đi?
Ngày 1.11.2012 nhà máy chạy thử
Chiều 5.10, làm việc về dự án bôxít Tân Rai
(huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng), thứ trưởng bộ Công thương Lê Dương
Quang yêu cầu tập đoàn Công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam
(Vinacomin) và ban quản lý dự án bôxít Tân Rai chốt mốc cuối cùng chạy
thử nhà máy alumin vào ngày 1.11. Mốc thời gian vận hành nhà máy được
ban quản lý dự án công bố, liên tục dời nhiều lần, từ tháng 4, tháng 6,
tháng 10.2012.
|
Buồn nhiều hơn vui. Buồn vì những cảnh báo của các nhà
khoa học cách đây 3 – 4 năm đang dần trở thành đúng. Bởi, sau khi
Vinacomin quyết tâm làm, đẩy tổng vốn thử nghiệm của cả hai dự án lên
tới 1,5 tỉ đôla Mỹ thì trong thâm tâm, tôi cũng phải cầu mong cho việc
thử nghiệm thành công. Rất tiếc, việc triển khai dự án đến nay đã cho
thấy rõ kết quả như dự báo ban đầu là: chậm tiến độ một cách toàn diện,
vốn đầu tư tăng toàn diện… Cả hai dự án thử nghiệm đang trong tình trạng
“tiến thoái lưỡng nan”. Kể cả bây giờ, tôi vẫn muốn khuyên Vinacomin
hai điều: thứ nhất, dũng cảm xin Chính phủ cho dừng dự án Nhân Cơ, chờ
thử nghiệm Tân Rai “trót lọt”, nếu có hiệu quả hãy triển khai tiếp Nhân
Cơ; và thứ hai, hãy tập trung nguồn lực (vốn, thời gian, cán bộ…) để
phát triển ngành than ở Quảng Ninh. Trong tình cảnh của Vinacomin bây
giờ, tiết kiệm được 1 đồng, giảm tổn thất được 1 đồng cũng quý (dừng
Nhân Cơ cũng tiết kiệm được vài trăm triệu đôla Mỹ). Còn trong tình cảnh
chung của đất nước: không có alumin thì Tây Nguyên vẫn phát triển được,
còn thiếu than thì cả nền kinh tế sẽ gay go.
Ông có suy tư gì sau chuyến đi vừa qua?
Chúng tôi đã “rong ruổi” ba ngày từ Buôn Ma Thuột, ghé
Nhân Cơ, thăm Tân Rai rồi xuống Kê Gà (Bình Thuận). Chúng tôi quan sát,
đánh giá và gặp gỡ những người có trách nhiệm. Điều có thể nhận thấy là
các dự án bôxít sẽ triệt tiêu rất nhanh và rất mạnh các nguồn tài nguyên
đất, tài nguyên nước, và tài nguyên sinh học của Tây Nguyên. Trước hay
sau, sớm hay muộn chúng ta cũng phải “loại bôxít ra khỏi tiềm năng kinh
tế của Tây Nguyên”, như tôi đã đề nghị cách đây 23 năm trong bài viết
trên tạp chí Năng Lượng (số 11/1989).
Về mặt chiến lược phát triển đất nước lâu dài, tài
nguyên thiên nhiên (đất, nước và sinh học) của Tây Nguyên quý hơn vạn
lần tài nguyên khoáng sản (bôxít). Nếu được quy hoạch và tổ chức tốt,
Tây Nguyên có đủ nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên để phát triển một
cách bền vững.
Hoàng Nguyên (thực hiện)